TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH HƯNG, TỈNH LONG AN
BẢN ÁN 13/2023/HNGĐ-ST NGÀY 28/07/2023 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Trong ngày 28 tháng 7 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Hưng, tỉnh Long An xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 38/2023/TLST-HNGĐ ngày 29 tháng 3 năm 2023 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 14/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 22 tháng 6 năm 2023 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Phan Thị T, sinh năm 1985. Địa chỉ: Ấp A, xã V, huyện V, tỉnh Long An.
- Bị đơn: Ông Trương Văn S, sinh năm 1981. Địa chỉ: Ấp A, xã V, huyện V, tỉnh Long An.
Bà T có mặt, ông S vắng mặt không có lý do.
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Theo đơn xin ly hôn ngày 08 tháng 3 năm 2023, tại phiên tòa nguyên đơn trình bày và thể hiện trong các tài liệu chứng cứ đã giao nộp cho Tòa án như sau:
Yêu cầu của bà T: Xin được ly hôn với ông S, yêu cầu nuôi con chung tên Trương Tuấn T1, sinh ngày 23/8/2005 và Trương Tuấn Đ, sinh ngày 01/01/2007 không yêu cầu ông S cấp dưỡng nuôi con chung, tài sản chung tự thỏa thuận; nợ chung không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Nội dung vụ án và lý do yêu cầu được bà T trình bày như sau: Bà và ông S tìm hiểu nhau một thời gian khoảng 01 năm thì tổ chức lễ cưới năm 2004; Vợ chồng bà có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã C, huyện C, tỉnh Tiền Giang ngày 12/9/2005. Sau khi cưới, hai vợ chồng đi làm ăn ở Thành phố Hồ Chí Minh, được một thời gian thì về sinh sống tại ấp A, xã V, huyện V, tỉnh Long An. Vợ chồng sống hạnh phúc và chỉ phát sinh mâu thuẫn cách nay vài năm. Nguyên nhân là do bất đồng ý kiến, ông S bỏ mặc chuyện kinh tế để bà tự tính toán, khi có phát sinh vấn đề khó khăn thì ông S không chia sẻ mà còn đỗ lỗi cho bà. Nay bà cũng không còn tình cảm với ông S nên xin ly hôn. Bà và ông S có hai con chung tên Trương Tuấn T1, sinh ngày 23/8/2005 và Trương Tuấn Đ, sinh ngày 01/01/2007 do bà trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng.
- Bị đơn ông S được triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng đều vắng mặt nên không ghi nhận được lời trình bày của ông S.
- Về ý kiến của Viện kiểm sát:
Quá trình thụ lý giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Theo quy định tại Điều 70, Điều 71, Điều 72 Bộ luật Tố tụng dân sự thì nguyên đơn chấp hành đúng, bị đơn chưa chấp hành đúng quy định như vắng mặt tại các phiên họp công khai chứng cứ và hòa giải, các phiên tòa xét xử vụ án.
Nội dung vụ án: Bà T và ông S có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật nên đây là hôn nhân hợp pháp được giải quyết theo Luật hôn nhân và gia đình; Quá trình giải quyết vụ án, ông S cố tình vắng mặt tại các lần Tòa án triệu tập và tại các phiên tòa, ông S cũng không có ý kiến muốn hàn gắn tình cảm vợ chồng nên hôn nhân của bà T và ông S đã lâm vào trầm trọng, đời sống hôn nhân không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, không có khả năng đoàn tụ; Con chung Trương Tuấn T1 và Trương Tuấn Đ đã trên 07 tuổi có nguyện vọng muốn ở với bà T, bà T có yêu cầu được nuôi con chung, không yêu cầu ông S cấp dưỡng nuôi con; về tài sản chung bà thu cho rằng sẽ tự thỏa thuận, còn nợ chung thì không có. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Các điều 19, 51, 56, 81, 82, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận toàn bộ yêu cầu của bà T: Bà T được ly hôn với ông S, giao các con chung cho bà T nuôi dưỡng và chăm sóc; về cấp dưỡng nuôi con chung, chia tài sản chung và chia nợ chung không có yêu cầu nên đề nghị không xem xét.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thẩm quyền: Bà T yêu cầu ly hôn với ông S, ông S có nơi cư trú tại xã V, huyện V, tỉnh Long An nên căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Hưng, tỉnh Long An thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền.
[2] Về tố tụng: Ông S được triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vắng mặt không có lý do nên Tòa án xét xử vắng mặt ông S là phù hợp với quy định tại Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[3] Về quan hệ hôn nhân: Hôn nhân của bà T và ông S được hình thành trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã C, huyện C, tỉnh Tiền Giang vào ngày 12/9/2005 theo quy định pháp luật nên đây là hôn nhân hợp pháp, được giải quyết theo Luật Hôn nhân và gia đình;
Bà T xác định đã không còn tình cảm với ông S, vợ chồng đã mâu thuẫn từ nhiều năm, không Sống chung từ đầu năm 2023 đến nay và không thể hàn gắn được nên nay giữ nguyên yêu cầu được ly hôn; Ông S nhiều lần được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng không đến Tòa án đề làm việc là thể hiện việc bỏ mặc tình trạng hôn nhân của mình, để cho bà T tự định đoạt; Ông S cũng không đưa ra ý kiến hoặc biện pháp để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy có căn cứ xác định tình trạng hôn nhân của bà T và ông S đã lâm vào tình trạng trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên việc chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà T là phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình.
[4] Về nuôi con chung: Con chung Trương Tuấn T1 và Trương Tuấn Đ đã trên 07 tuổi và có nguyện vọng được ở với bà T; Đồng thời, theo biên bản xác minh ngày 22/6/2023 tại ấp A, xã V thì con chung đang ở cùng bà T, bà T có việc làm, có thu nhập ổn định đảm bảo đủ điều kiện chăm lo cho con chung phát triển về mọi mặt, ông S không có ý kiến về việc tranh chấp nuôi con. Vì vậy, Tòa án chấp nhận yêu cầu của bà T, giao con chung cho bà T trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng là phù hợp với quy định của pháp luật tại các điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân gia đình; Bà T không yêu cầu cấp dưỡng nên Hội đồng xét xử không xem xét trong vụ án này.
[5] Về chia tài sản chung bà T xác định tự thỏa thuận còn về chia nợ chung thì không có. Ông S cũng không có yêu cầu vì vậy Hội đồng xét xử không đề cập đến, trường hợp sau này giữa các đương sự có tranh chấp thì sẽ thụ lý giải quyết bằng vụ án khác.
Từ các nhận định trên, đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ, Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu về ly hôn, tranh chấp nuôi con của bà T.
[6] Về án phí: Do bà T không thuộc trường hợp được miễn án phí nên bà T phải chịu án phí hôn nhân gia đình không giá ngạch là 300.000 đồng.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ các điều 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình;
Căn cứ Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội 14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Phan Thị T về việc xin ly hôn, tranh chấp nuôi con với ông Trương Văn S.
Về hôn nhân: Bà Phan Thị T được ly hôn với ông Trương Văn S.
Về nuôi con chung: Giao con chung tên Trương Tuấn T1 (Giới tính: Nam), sinh ngày 23/8/2005 và Trương Tuấn Đ (Giới tính: Nam), sinh ngày 01/01/2007, cho bà Phan Thị T trực tiếp nuôi dưỡng và chăm sóc. Bà Phan Thị T không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Bên không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom, chăm sóc con chung không ai có quyền ngăn cản. Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc người thân thích của con chung hoặc cá nhân, tổ chức theo luật định, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc cấp dưỡng nuôi con.
BVề án phí: Bà Phan Thị T phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm nộp ngân sách Nhà nước. Chuyển 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí bà Phan Thị T đã nộp theo biên lai thu tiền số 0003919 ngày 29 tháng 3 năm 2023 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Vĩnh Hưng sang tiền án phí.
Báo cho bà Phan Thị T có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Ông Trương Văn S vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 13/2023/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 13/2023/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Hưng - Long An |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 28/07/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về