Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 123/2023/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỸ XUYÊN, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 123/2023/HNGĐ-ST NGÀY 29/09/2023 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 29 tháng 09 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện O tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 130/2023/TLST-HNGĐ ngày 19 tháng 07 năm 2023; về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 292/2023/QĐXXST-DS ngày 24 tháng 08 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số 256/2023/QĐST-DS ngày 15 tháng 09 năm 2023, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Lê Thị Ngọc D, sinh năm 1993;

Địa chỉ: Ấp Q, xã W, huyện E, tỉnh An Giang. (có đơn xin vắng mặt)

- Bị đơn: Anh Nguyễn Tuấn V, sinh năm 1990;

Địa chỉ: Ấp R, xã Y, huyện O, tỉnh Sóc Trăng. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

1. Theo đơn khởi kiện đề ngày 17/07/2023 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn Lê Thị Ngọc D trình bày: Nguyên năm 2017, chị Lê Thị Ngọc D với anh Nguyễn Tuấn V xác lập quan hệ hôn nhân, chung sống vợ chồng, đến năm 2019 có đăng ký kết hôn và được UBND xã W cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 89 ngày 13/09/2019. Sau đám cưới chị Lê Thị Ngọc D cùng anh Nguyễn Tuấn V sinh sống tại ấp Q, xã W, huyện E, tỉnh An Giang. Trong quá trình chung sống anh chị có một con chung là bé Nguyễn Tấn P, sinh ngày 03/03/2017 (theo Giấy khai sinh số 26 ngày 14/01/2020), không có tài sản chung, không có nợ chung và cũng không có người khác nợ vợ chồng. Trong thời gian đầu chung sống hạnh phúc, nhưng thời gian chung sống sau này vợ chồng thường xảy ra mâu thuẫn, cải vã và bất đồng trong suy nghĩ và hành động nên đời sống hôn nhân lạnh nhạt, không còn chung sống vợ chồng từ năm 2019 cho đến nay.

Nay chi Lê Thị Ngọc D nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng, không thể tiếp tục chung sống nên yêu cầu Tòa án giải quyết:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Thị Ngọc D xin được ly hôn với anh Nguyễn Tuấn Vũ.

- Về con chung: Lê Thị Ngọc D đồng ý giao cho anh Nguyễn Tuấn Vũ tiếp tục nuôi bé Nguyễn Tấn P, sinh ngày 03/03/2017 đến trưởng thành (tròn 18 tuổi); chị Lê Thị Ngọc D không cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung, nợ chung, người khác nợ vợ chồng: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

2. Bị đơn Nguyễn Tuấn V: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án só 130/2023/TB-TLVA ngày 19/07/2023 của Tòa án nhân dân huyện O, tỉnh Sóc Trăng (nhưng anh Nguyễn Tuấn V thường xuyên vắng mặt tại nơi cư trú, nên niêm yết ngày 20/07/2023) nên anh Nguyễn Tuấn V cũng đã biết nội dung, căn cứ khởi kiện và những vấn đề chị Lê Thị Ngọc D yêu cầu Tòa án giải quyết, nhưng anh Nguyễn Tuấn V không có văn bản trả lời theo Toán án ấn định. Đồng thời, Tòa án đã triệu tập tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng vẫn không tham gia.

* Tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn xin vắng mặt và không có ý kiến khác nên xem như giữ nguyên nội dung đơn yêu cầu khởi kiện.

* Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc tuân thủ và chấp hành đúng pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án. Đồng thời, phát biểu quan điểm về tính có căn cứ và hợp pháp của yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, theo phát biểu và đề nghị của Kiểm sát viên và người tham gia tố tụng, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[I] Về t ố tụng :

[1] Theo đơn khởi kiện, nguyên đơn Lê Thị Ngọc D yêu cầu Tòa án giải quyết xin được ly hôn với anh Nguyễn Tuấn V; đồng ý giao bé Nguyễn Tấn P, sinh ngày 03/03/2017 cho anh Nguyễn Tuấn V được tiếp tục nuôi đến trưởng thành (tròn 18 tuổi), chị Lê Thị Ngọc D không cấp dưỡng nuôi con; tài sản chung, nợ chung, người khác nợ vợ chồng không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Khi thụ lý vụ án, Tòa án xác định quan hệ tranh chấp “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” là là đúng theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.

[2] Trong vụ án bị đơn Nguyễn Tuấn V cư trú tại ấp R, xã Y, huyện O, tỉnh Sóc Trăng, vụ án được giải quyết theo thủ tục sơ thẩm và không có đương sự hoặc tài sản ở nước ngài hoặc cần ủy thác tư pháp. Do vậy, Toà án nhân dân huyện O, tỉnh Sóc Trăng thụ lý, xét xử vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.

[3] Tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn Lê Thị Ngọc D có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; bị đơn Nguyễn Tuấn V đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai để tham gia phiên tòa sơ thẩm mà vẫn vắng mặt không lý do và không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan, việc vắng mặt không ảnh hưởng đến việc xét xử. Do vậy, Hội đồng xét xử căn cứ theo quy định tại Điều 227, Điều 228 và Điều 238 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015, tiến hành xét xử vụ án.

[II] Về nội dung :

[1] Nguyên đơn Lê Thị Ngọc D và bị đơn Nguyễn Tuấn V chung sống và kết hôn với nhau là trên cơ sở tự nguyện, không ai ép buộc, được UBND xã W cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 89 ngày 13/09/2019, nên quan hệ hôn nhân giữa chị Lê Thị Ngọc D với anh Nguyễn Tuấn V là hợp pháp. Sau khi kết hôn anh chị chung sống hạnh phúc và đã có con chung, theo chị Lê Thị Ngọc D trong thời gian chung sống sau này vợ chồng thường xảy ra mâu thuẫn, cải vã và bất đồng trong suy nghĩ và hành động nên đời sống hôn nhân lạnh nhạt, không còn chung sống vợ chồng từ năm 2019 cho đến nay. Bị đơn Nguyễn Tuấn V tuy không có ý kiến và không tham gia tố tụng nhưng biết về nội dung khởi kiện và yêu cầu của nguyên đơn mà không phản đối.

[2] Theo quy định tại Điều 39 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về quyền nhân thân trong hôn nhân và gia đình “Cá nhân có quyền kết hôn, ly hôn...; Cá nhân thực hiện quyền nhân thân trong hôn nhân và gia đình theo quy định của Bộ luật này, Luật hôn nhân và gia đình...” và theo quy định tại khoản 1 Điều 51 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 thì “Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn”. Do đó, chị Lê Thị Ngọc D hoặc chị Lê Thị Ngọc D cùng anh Nguyễn Tuấn V có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn, nên ngày 17/07/2023 chị Lê Thị Ngọc D tự mình gửi đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết được ly hôn với anh Nguyễn Tuấn V là phù hợp theo quy định pháp luật.

[3] Theo nguyên đơn Lê Thị Ngọc D trong thời gian chung sống chung sống sau này vợ chồng thường xảy ra mâu thuẫn, cải vã và bất đồng trong suy nghĩ và hành động nên đời sống hôn nhân lạnh nhạt, không còn chung sống vợ chồng từ năm 2019 cho đến nay. Xét thấy, thời gian thời gian chị Lê Thị Ngọc D và anh Nguyễn Tuấn V không còn chung sống vợ chồng tính đến thời điểm khởi kiện và xét xử sơ thẩm là đã nhiều năm và mâu thuẫn vợ chồng đã phát sinh trong thời gian chung sống và cũng đã kéo dài, đến mức trầm trọng, làm cho cuộc sống vợ chồng không được hạnh phúc, đời sống chung không thể kéo dài và mục đích của hôn nhân cũng không đạt được, tình cảm vợ chồng thật sự đã hết và về tương lai cũng không thể hàn gắn được, nếu duy trì quan hệ hôn nhân sẽ ảnh hưởng đến cuộc sống bình thường của các bên và đến việc nuôi dạy con cái, nay chị Lê Thị Ngọc D cương quyết ly hôn với anh Nguyễn Tuấn V. Do đó, theo chị Lê Thị Ngọc D yêu cầu xin được ly hôn với anh Nguyễn Tuấn V là có căn cứ và phù hợp quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, nên Hội đồng xét xử chấp.

[4] Về con chung, Hội đồng xét xử thấy rằng: theo khoản 2 và 3 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn thì “Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con”, “Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con”. Xét thấy, bé Nguyễn Tấn P, sinh ngày 03/03/2017 tính đến ngày xét xử sơ thẩm trên 36 tháng tuổi và dưới 07 tuổi, hiện tại bé sống với anh Nguyễn Tuấn V, anh Nguyễn Tuấn V là người trực tiếp nuôi dưỡng bé, nên tình cảm gắn bó với anh Nguyễn Tuấn V, nếu thay đổi người nuôi dưỡng là thay đổi môi trường sống sẽ ảnh hưởng đến thể chất, tinh thần (đời sống tâm sinh lý và tình cảm) và cuộc sống bình thường của bé. Việc chị Lê Thị Ngọc D đồng ý giao bé cho anh Nguyễn Tuấn V tiếp tục trực tiếp nuôi con, chị Lê Thị Ngọc D không cấp dưỡng là có căn cứ. Do vậy, theo chị Lê Thị Ngọc D yêu cầu sau khi ly hôn giao bé Nguyễn Tấn P, sinh ngày 03/03/2017 cho anh Nguyễn Tuấn V trực tiếp nuôi đến tuổi trưởng thành (tròn 18 tuổi) và chị Lê Thị Ngọc D không cấp dưỡng nuôi con là có cơ sở, được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5] Tuy nhiên, trong quá trình nuôi con do điều kiện kinh tế khó khăn, không đảm bảo nuôi con thì anh Nguyễn Tuấn V vẫn được quyền khởi kiện yêu cầu chị Lê Thị Ngọc D cấp dưỡng nuôi con (khi bé Phát chưa tròn 18 tuổi) theo quy định tại Điều 107, Điều 110 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[6] Về tài sản chung, nợ chung và người khác nợ lại, theo chị Lê Thị Ngọc D xác nhận không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét. Nếu sau này có phát sinh và tranh chấp thì sẽ khởi kiện và giải quyết theo quy định pháp luật.

[7] Từ những phân tích và nhận định như đã nêu trên, theo yêu cầu khởi kiện nguyên đơn là có căn cứ, nên được chấp nhận.

[8] Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có cơ sở, nên được chấp nhận.

[9] Về án phí dân sự sơ thẩm, nguyên đơn phải chịu án phí hôn nhân theo mức án phí không giá ngạch theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015; theo hướng dẫn tại điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 228 và Điều 238 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;

Áp dụng khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 và khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 39 Bộ luật Dân sự năm 2015; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tu yên xử :

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Lê Thị Ngọc D.

- Về quan hệ hôn nhân: Đồng ý cho chị Lê Thị Ngọc D và anh Nguyễn Tuấn V được lý hôn.

- Về con chung: Giao bé Nguyễn Tấn P, sinh ngày 03/03/2017 cho anh Nguyễn Tuấn V trực tiếp nuuoi dưỡng đến tuổi trưởng thành (tròn 18 tuổi) và chị Lê Thị Ngọc D không phải cấp dưỡng nuôi con. Dành quyền thăm nom, chăm sóc con chung cho chị Lê Thị Ngọc D theo quy định pháp luật, không ai có quyền ngăn cản.

- Về tài sản chung, nợ chung và người khác nợ lại: Theo chị Lê Thị Ngọc D không có và không yêu cầu giải quyết nên Tòa án không đặt ra xem xét.

2. Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Chị Lê Thị Ngọc D phải chịu 300.000đồng nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đồng theo Biên lai thu số 0010252 ngày 18/7/2023 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện O, tỉnh Sóc Trăng. Như vậy, chi Lê Thị Ngọc D đã nộp đủ án phí hôn nhân sơ thẩm.

3. Báo các đương sự biết, án xử sơ thẩm công khai có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (đối với đương sự không có mặt tại phiên tòa kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án tại UBND cấp xã nơi cư trú) để xin Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử lại vụ án theo trình tự phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2014), thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2014).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

3
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 123/2023/HNGĐ-ST

Số hiệu:123/2023/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mỹ Xuyên - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về