Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 12/2024/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẮC QUANG, TỈNH HÀ GIANG

BẢN ÁN 12/2024/HNGĐ-ST NGÀY 27/03/2024 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 27 tháng 3 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 71/2023/TLST- HNGĐ ngày lố tháng 10 năm 2023 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01b/2024/QĐXXST-HNGĐ ngày 15 tháng 02 năm 2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số 11/2024/QĐST-HNGĐ ngày 14 tháng 3 năm 2024, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Lương Thị V, sinh năm 1991; Địa chỉ: Thôn Đ, xã Đ, huyện B, tỉnh Hà Giang.

- Bị đơn: Anh Nông Văn H, sinh năm 1987; Địa chỉ: Thôn Đ, xã Đ, huyện B, tỉnh Hà Giang.

Tại phiên tòa, nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt; bị đơn vắng mặt lần 02 không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ly hôn và bản tự khai nguyên đơn chị Lương Thị V trình bày: Chị và anh Nông Văn H đăng ký kết hôn trên cơ sở tự nguyện tại Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện B, tỉnh Hà Giang ngày 13/12/2012 và được gia đình tổ chức cưới hỏi theo phong tục tập quán địa phương. Quá trình chung sống, vợ chồng sống hạnh phúc, từ năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng bất đồng về quan điểm sống, thường xảy ra cãi chửi lẫn nhau dẫn đến xô xát. Mâu thuẫn giữa hai vợ chồng ngày càng căng thẳng, nên anh chị đã sống ly thân từ giữa năm 2019, trong thời gian sống ly thân được gia đình hòa giải nhiều lần, anh chị cũng đã quay về chung sống với nhau nhưng chỉ được 02 tháng lại tiếp tục xảy ra mâu thuẫn, do đó chị V, anh H đã sống ly thân, không còn quan tâm đến nhau từ cuối năm 2020 cho đến nay. Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, có níu kéo cũng không có hạnh phúc nên chị có đơn đề nghị Tòa án nhân dân huyện Bắc Quang giải quyết cho chị được ly hôn anh Nông Văn H.

Về con chung: Chị Lương Thị V khai nhận, quá trình chung sống anh chị có 01 con chung là cháu Nông Đức G, sinh ngày 16/4/2013. Khi ly hôn chị đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng, trông nom, chăm sóc cháu Nông Đức G cho đến khi cháu đủ 18 tuổi và không yêu cầu anh H phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản và công nợ chung: Chị Lương Thị V xác nhận không có tài sản chung và công nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với bị đơn Nông Văn H: Quá trình thụ lý và giải quyết vụ án do anh Nông Văn H làm nghề lao động tự do thường xuyên vắng nhà thỉnh thoảng mới về, nên các văn bản tố tụng của Tòa án gửi cho bị đơn đều được giao cho ông Lương Văn G1 (là bố đẻ của chị Lương Thị V) nhận thay, đồng thời ông Lương Văn G1 cũng đã thông báo cho anh Nông Văn H biết việc Tòa án đang thụ lý giải quyết vụ án ly hôn theo yêu cầu của chị Lương Thị V, nhưng anh Nông Văn H vẫn không thực hiện nghĩa vụ của bị đơn khi có thông báo và giấy triệu tập của Tòa án.

Tại biên bản xác minh trưởng thôn Đ, xã Đ, huyện B và biên bản làm việc ngày 18/01/2024 với ông Lương Văn G1 (là bố đẻ của chị Lương Thị V) cho thấy: Năm 2012 chị Lương Thị V có xây dựng gia đình với anh Nông Văn H, sinh năm 1987 thuộc thôn P, xã Đ, huyện T, tỉnh Lạng Sơn, trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện B theo quy định của pháp luật. Sau khi cưới anh H về ở rể sống chung và đăng ký hộ khẩu cùng gia đình nhà ông Lương Văn G1 (là bố đẻ của chị Lương Thị V) tại thôn Đ, xã Đ, huyện B. Quá trình chung sống tại gia đình bên vợ, giữa hai anh chị sống hạnh phúc và có 01 con chung, tuy nhiên từ năm 2020 chị V anh H cùng đi làm ăn ở công ty mới xảy ra mâu thuẫn và đã sống ly thân từ năm 2022 cho đến nay, nguyên nhân là do anh chị bất đồng về quan điểm sống, không tìm được tiếng nói chung. Việc mâu thuẫn giữa hai anh chị cũng đã được gia đình khuyên bảo nhưng chị Lương Thị V vẫn cương quyết đề nghị Tòa án giải quyết cho ly hôn. Tại buổi làm việc lập biên bản xác minh với trưởng thôn, ông Lương Văn G1 đã gọi điện thoại cho anh Nông Văn H qua Zalo hình ảnh để nói chuyện trực tiếp với bị đơn, trước sự chứng kiến của ông Hoàng Văn C là trưởng thôn Đ và Tòa án, quá trình trao đổi qua Zalo hình ảnh trên điện thoại, quan điểm của anh Nông Văn H là: Nếu chị Lương Thị V vẫn cương quyết ly hôn thì anh H cũng nhất trí; về việc nuôi con chung nếu cháu Nông Đức G có nguyện vọng ở với mẹ cùng ông bà ngoại thì anh H nhất trí, do anh H hiện nay đi làm ăn ở xa không sắp xếp thời gian về để giải quyết việc ly hôn tại Tòa án được, anh H có đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt.

Do đó, Tòa án nhân dân huyện Bắc Quang đã tiến hành xác minh tình trạng hôn nhân, nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng và điều kiện nuôi con chung tại chính quyền địa phương để ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa mở lần thứ nhất nguyên đơn có mặt, bị đơn vắng mặt không có lý do. Tại phiên tòa mở lần thứ hai nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, còn bị đơn vắng mặt lần thứ 02 không có lý do. Trong đơn xin xét xử vắng mặt, nguyên đơn chị Lương Thị V vẫn giữ nguyên quan điểm đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn, về con chung chị V đề nghị được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cháu Nông Đức G, không yêu cầu anh Nông Văn H phải cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản, công nợ chung chị Lương Thị V không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang phát biểu ý kiến tại phiên tòa như sau:

- Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán, hội đồng xét xử đều tuân thủ đúng trình tự thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật; nguyên đơn chị Lương Thị V đều chấp hành và tuân thủ đúng pháp luật tố tụng, còn bị đơn anh Nông Văn H đã không tuân thủ và không thực hiện đúng nghĩa vụ của đương sự theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình; điểm a khoản 5, Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

+ Về quan hệ hôn nhân: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đơn khởi kiện của nguyên đơn và xử cho chị Lương Thị V được ly hôn anh Nông Văn H.

+ Về con chung: Đề nghị xử giao cho chị Lương Thị V là người trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Nông Đức G, sinh ngày 16/4/2013 cho đến khi cháu đủ 18 tuổi, anh Nông Văn H không phải cấp dưỡng nuôi con.

+ Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được kiểm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền: Xét đơn khởi kiện "Ly hôn, tranh chấp về nuôi con" của chị Lương Thị V được quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.

[2] Về sự vắng mặt của đương sự: Tại phiên tòa các đương sự đều vắng mặt, tuy nhiên trước khi mở phiên tòa nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, bị đơn đã được triệu tập hợp lệ lần thứ 02 nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ khoản 2 Điều 227 và khoản 1, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử theo thủ tục chung.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Trên cơ sở lời khai của nguyên đơn và các biên bản xác minh tại Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện B, biên bản làm việc với ông Lương Văn G1 (là bố đẻ của chị Lương Thị V) cho thấy, chị Lương Thị V và anh Nông Văn H lấy nhau năm 2012 trên cơ sở tìm hiểu tự nguyện và có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, do đó cuộc hôn nhân giữa hai anh chị là hợp pháp. Sau khi kết hôn anh Nông Văn H về ở rể tại gia đình bố mẹ vợ tại thôn Đ, xã Đ, huyện B, tỉnh Hà Giang. Quá trình chung sống anh chị sống hạnh phúc được một thời gian nhất định, từ năm 2020 sau khi cùng nhau đi làm ăn ở công ty giữa anh chị mới xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng về quan điểm sống, không tìm được tiếng nói chung, nên anh chị đã sống ly thân từ năm 2022. Chính vì vậy, chị Lương Thị V đã làm đơn xin ly hôn với anh H. Căn cứ các chứng cứ tài liệu đã thu thập tại chính quyền địa phương về nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng có trong hồ sơ vụ án, cho thấy tình trạng hôn nhân giữa chị Lương Thị V và anh Nông Văn H đã thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Quan điểm của chị V trong đơn xin ly hôn, bản tự khai và đơn xin xét xử vắng mặt, nguyên đơn vẫn giữ nguyên quan điểm đề nghị giải quyết cho được ly hôn, do đó cần áp dụng khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình, chấp nhận đơn khởi kiện của nguyên đơn, xử cho chị Lương Thị V được ly hôn anh Nông Văn H.

[4] Về con chung: Trên cơ sở lời khai của nguyên đơn và các biên bản xác minh tại Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện B, đã xác định được Lương Thị V và anh Nông Văn H có 01 con chung là cháu Nông Đức G, sinh ngày 16/4/2013. Quan điểm của chị Lương Thị V, khi ly hôn đề nghị được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cháu G cho đến khi cháu đủ 18 tuổi, không yêu cầu anh H phải cấp dưỡng nuôi con. Trên cơ sở yêu cầu của nguyên đơn và nguyện vọng của cháu Nông Đức G về việc đề nghị được ở với mẹ, Hội đồng xét xử thấy rằng, hiện nay anh Nông Văn H thường xuyên vắng nhà, không có thời gian chăm sóc con chung. Vì vậy, để đảm bảo về mặt tâm sinh lý và quyền lợi về mọi mặt của con, cần áp dụng khoản 2 Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình, xử giao cho chị Lương Thị V là người trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu G cho đến khi cháu đủ 18 tuổi, anh Nông Văn H không phải cấp dưỡng nuôi con.

[5] Về tài sản, công nợ chung: Nguyên đơn không yêu cầu giải quyết, bị đơn không thực hiện đúng nghĩa vụ của đương sự theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí: Chị Lương Thị V phải chịu án phí sơ thẩm ly hôn theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227 và khoản 1, 3 Điều 228, các Điều 271, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Áp dụng khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 57, Điều 58 và các Điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận đơn khởi kiện của chị Lương Thị V, xử cho chị Lương Thị V được ly hôn anh Nông Văn H.

Quan hệ hôn nhân chấm dứt kể từ ngày bản án của Tòa án nhân dân huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang có hiệu lực pháp luật.

2. Về con chung: Xử giao cho chị Lương Thị V là người trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Nông Đức G, sinh ngày 16/4/2013 cho đến khi cháu G đủ 18 tuổi, anh Nông Văn H không phải cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền đi lại thăm nom con; cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên trong gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục con. Vì quyền lợi của con chung chị Lương Thị V, anh Nông Văn H có quyền thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

3. Về án phí: Chị Lương Thị V phải chịu án phí sơ thẩm ly hôn là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng), được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang theo biên lai số 0003317, ngày 16 tháng 10 năm 2023.

4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản sao bản án hoặc niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

14
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 12/2024/HNGĐ-ST

Số hiệu:12/2024/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bắc Quang - Hà Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về