Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 12/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGA SƠN, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 12/2022/HNGĐ-ST NGÀY 15/04/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 15 tháng 4 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 160/2021/TLST- HNGĐ ngày 01 tháng 12 năm 2021 về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 11/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 09 tháng 3 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1999; địa chỉ: thôn T, xã T, huyện N, tỉnh Thanh Hóa; vắng mặt (có đơn xin xét xử vắng mặt).

2. Bị đơn: Anh Ngô Văn L, sinh năm 1996; địa chỉ: Thôn 5, xã T1, huyện N, tỉnh Thanh Hóa; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 29/11/2021, bản tự khai ngày 10/12/2021, nguyên đơn Nguyễn Thị T trình bày:

Về hôn nhân: Chị và anh Ngô Văn L kết hôn với nhau vào ngày 12/10/2020 trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân (UBND) xã T, huyện N, tỉnh Thanh Hóa. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình của vợ chồng không còn hòa hợp, quan điểm sống của vợ chồng hoàn toàn trái ngược nhau, trong cuộc sống thường xảy ra xung đột, vợ chồng không tìm được tiếng nói chung. Anh L thường xuyên đánh đập, dày vò, sỉ nhục nhân phẩm của chị. Vợ chồng sống ly thân đã 05 tháng nay, không còn quan tâm gì đến nhau nữa. Nay chị xét thấy tình cảm vợ chồng không còn nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh L.

Về con: Vợ chồng có một con chung là Ngô Văn T sinh ngày 22/10/2020. Hiện tại cháu T đang ở với anh L nên chị T đề nghị để cho anh L được trực tiếp nuôi con, chị không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản: Vợ chồng không có tài sản chung, nên chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với bị đơn Ngô Văn L: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã giao và niêm yết thông báo về việc thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải hợp lệ cho anh L nhưng anh L đều vắng mặt, không đến Tòa án để thực hiện việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, nên Tòa án không tiến hành hòa giải được.

Tại phiên tòa lần thứ nhất hai bên đương sự đều vắng mặt (chị T có đơn đề nghị xét xử vắng mặt) nên Hội đồng xét xử (HĐXX) đã ra quyết định hoãn phiên tòa. Tại phiên tòa hôm nay, anh L vẫn vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan, nên HĐXX quyết định xét xử vắng mặt chị T và anh L.

Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát: Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán, HĐXX, Thư ký phiên tòa đã tuân theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS); những người tham gia tố tụng: nguyên đơn đã thực hiện quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật, bị đơn không chấp hành quyền và nghĩa vụ theo quy định. Về giải quyết vụ án: Đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị T, cho chị T được ly hôn anh Ngô Văn L; về con: giao cháu Ngô Văn T sinh ngày 22/10/2020 cho anh L trực tiếp nuôi dưỡng, chị T không phải cấp dưỡng nuôi con chung; về án phí: chị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm (DSST) về việc ly hôn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, HĐXX nhận định:

* Về thủ tục tố tụng: Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của BLTTDS thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Nguyên đơn Nguyễn Thị T có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, còn bị đơn Ngô Văn L vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai nên căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của BLTTDS, Tòa án xét xử vắng mặt đối với chị T và anh L.

* Về nội dung giải quyết:

[1] Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị T và anh Ngô Văn L kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn theo chị T trình bày là do tính tình của vợ chồng không còn hòa hợp, quan điểm sống của vợ chồng hoàn toàn trái ngược nhau, trong cuộc sống thường xảy ra xung đột, vợ chồng không tìm được tiếng nói chung. Anh L thường xuyên đánh đập, dày vò, sỉ nhục nhân phẩm của chị. thường xuyên xảy ra xung đột, cuộc sống hôn nhân không còn hạnh phúc. Vợ chồng đã ly thân nhau được 05 tháng nay. Qua xác minh tại địa phương, ông Phạm Thái S, trưởng thôn 5, xã T có ý kiến: vợ chồng anh L, chị T mới kết hôn với nhau khoảng hơn một năm nay. Vợ chồng thường đi làm ăn ở xa, thỉnh thoảng mới về quê. Ông cũng biết được vợ chồng anh L, chị T có xảy ra một số mâu thuẫn, nên chị T đã bỏ bố con anh L đi mấy tháng nay. Từ những mâu thuẫn nêu trên, chứng tỏ tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, bản thân anh L cũng không có ý kiến gì về yêu cầu ly hôn của chị T, nên HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị T, cho chị T được ly hôn anh L là phù hợp với quy định của pháp luật.

[2] Về con: Vợ chồng có một con chung là Ngô Văn T sinh ngày 22/10/2020. Chị T đề nghị để cho anh L trực tiếp nuôi con vì hiện nay con đang ở với anh L, chị không muốn xáo trộn cuộc sống của con. Xét thấy, mặc dù cháu T còn nhỏ tuổi nhưng hiện nay đang ở với bố, việc chị T để cho anh L trực tiếp nuôi dưỡng là hoàn toàn tự nguyện, còn anh L không có ý kiến gì, nên HĐXX chấp nhận yêu cầu của chị T, giao cháu T cho anh L trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với quy định của pháp luật. Về cấp dưỡng nuôi con, chị T đề nghị không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung, còn anh L không có ý kiến gì, nên HĐXX chấp nhận yêu cầu của chị T, không buộc chị T phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Nếu anh L có yêu cầu thì sẽ giải quyết bằng một vụ án khác về yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung.

[3] Về tài sản: Chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản, còn anh Lực không có ý kiến gì, nên miễn xét.

[4] Về án phí: Chị T phải chịu án phí DSST về việc ly hôn theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228, khoản 4 Điều 147, Điều 271 và khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 1 Điều 24, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận đơn khởi kiện của chị Nguyễn Thị T, cho chị T được ly hôn anh Ngô Văn L.

2. Về con: Giao cháu Ngô Văn T sinh ngày 22/10/2020 cho anh Ngô Văn L trực tiếp nuôi dưỡng, chị Nguyễn Thị T không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Chị T có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Nguyễn Thị T phải chịu án phí DSST về việc ly hôn là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng), nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí DSST đã nộp là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí toà án số AA/2021/0014789 ngày 30/11/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Nga Sơn, chị T đã nộp đủ án phí DSST.

Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

163
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 12/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:12/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nga Sơn - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về