Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 09/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HUẾ - TỈNH THỪA THIÊN HUẾ

BẢN ÁN 09/2022/HNGĐ-ST NGÀY 24/03/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 24 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Huế (số 60 Nguyễn Huệ - Huế) xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 454/2021/TLST-HNGĐ ngày 11/10/2021; Về việc “ Ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 08/2022/QĐST- HNGĐ ngày 14 tháng 3 năm 2022, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Lê Thị Hồng L, sinh năm 1993; địa chỉ: Thôn M, xã P, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Chỗ ở hiện nay: Xóm 1, thôn L, xã P, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế, có mặt.

Bị đơn: Anh Phan Đình Q, sinh năm 1988; địa chỉ: địa chỉ: Thôn M, xã P, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế, vắng mặt có đơn xin xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 13/7/2021 và trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn là chị Lê Thị Hồng L đều trình bày:

Chị và anh Phan Đình Q đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã P, thành phố Huế vào ngày 18/8/2015. Sau khi kết hôn vợ chồng chị chung sống với nhau ở nhà bố mẹ anh Q. Vợ chồng sống hạnh phúc được khoảng và tháng thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do anh Q không lo làm ăn, suốt ngày đi chơi, nợ nần, cờ bạc, không quan tâm gì đến vợ con nên từ tháng 04 năm 2021 cho đến nay thì vợ chồng chị sống ly thân không còn quan tâm đến nhau nữa. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị khởi kiện xin ly hôn anh Q để ổn định cuộc sống.

Về con chung: Chị L khai chị và anh Q có 02 con chung là Phan Ngọc An N, sinh ngày 12/7/2016 và Phan Ngọc Anh T, sinh ngày 08/01/2019, hiện đang ở với chị. Chị L có nguyện vọng được tiếp tục trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng hai cháu và không yêu cầu anh Q cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Chị L xác định chị và anh Q không có tài sản chung, nợ chung và không yêu cầu Toà án giải quyết.

Tại bản tự khai ngày 24/12/2021, bị đơn anh Phan Đình Q trình bày: Về quan hệ hôn nhân thì chị L khai như vậy là đúng. Về nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng không hợp tính nhau, bất đồng quan điểm sống. Hiện tại anh chị đã sống ly thân, không còn quan tâm gì đến nhau nữa. Nay anh thấy tình cảm vợ chồng không còn nên chị L xin ly hôn thì anh thuận tình ly hôn với chị L.

Quá trình giải quyết vụ án, anh Phan Đình Q không đến Toà án để tham gia các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải. Tại phiên toà, anh Q vắng mặt có đơn xin xét xử vắng mặt.

Tại bản tự khai ngày 05/11/2021, chị Lê Thị Thúy V(chị gái của chị Lê Thị Hồng L) trình bày: Quá trình vợ chồng chị L anh Q chung sống với nhau phát sinh nhiều mâu thuẫn và ngày càng trầm trọng. Nguyên nhân mâu thuẫn do anh Q ham chơi, không chịu làm ăn và không quan tâm đến vợ nên từ tháng 4/2021, chị L đã bỏ về nhà mẹ đẻ sinh sống. Nay chị L xin ly hôn anh Q thì chị đề nghị Toà án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 10/02/2022, ông Phan Đình H (bố của anh Phan Đình Q) trình bày:Qúa trình vợ chồng chị L anh Q chung sống với nhau hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do anh Q ham chơi, không chịu làm ăn, đem tài sản đi cầm cố, còn chị L thì cư xử quá quắt, thiếu tôn trọng bố mẹ chồng, dẫn đến mâu thuẫn ngày càng trầm trọng không quan tâm đến vợ nên từ tháng 3/2021, vợ chồng L Q sống ly thân, không còn quan tâm gì đến nhau nữa. Nay chị L xin ly hôn anh Q thì ông đề nghị Toà án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, xin ly hôn anh Phan Đình Q.

Về việc kiểm sát việc tuân theo pháp luật, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Huế có ý kiến:

[1] Việc tuân theo pháp luật tố tụng của những người tiến hành tố tụng:

Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng:

Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án:

- Quyền và nghĩa vụ của nguyên đơn: Từ khi thụ lý vụ án cho đến khi xét xử đã thực hiện đúng các quy định tại Điều 70, Điều 71, Điều 234 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Quyền và nghĩa vụ của bị đơn: Từ khi thụ lý vụ án cho đến khi xét xử đã không thực hiện đúng các quy định tại khoản 16 Điều 70, Điều 72 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ Điều 5, 51, 56, 57 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014; khoản 1 Điều 28, Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Chấp nhận đơn ly hôn của chị Lê Thị Hồng L. Cho chị L được ly hôn với anh Phan Đình Q.

Về con chung: Giao cháu Phan Ngọc An N, sinh ngày 12/7/2016 và Phan Ngọc Anh T, sinh ngày 08/01/2019 cho chị L trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng cho đến tuổi trưởng thành.

Về cấp dưỡng nuôi con: Do chị L không yêu cầu anh Q cấp dưỡng nuôi con nên Viện kiểm sát không xem xét.

Về tài sản chung, nợ chung: Vợ chồng không yêu cầu Toà án giải quyết nên Viện kiểm sát không xem xét.

Buộc chị Lê Thị Hồng L phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa hôm nay, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Chị Lê Thị Hồng L khởi kiện xin ly hôn anh Phan Đình Q. Nơi cư trú: Thôn M, xã P, thành phố Huế. Do đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình nên theo quy định tại khoản 1 Điều 28, Điểm a Khoản 1 Điều 35, Điểm a Khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế.

Tại phiên tòa, bị đơn là anh Phan Đình Q vắng mặt có đơn xin xét xử vắng mặt. Do đó, căn cứ vào khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh Q.

[2] Về nội dung:

[2.1] Anh Phan Đình Q và chị Lê Thị Hồng L có quá trình chung sống với nhau, trên cơ sở tự nguyện, hai bên đã đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã P, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế vào ngày 18/8/2015 (số 76, quyển số 01/2015). Như vậy, hôn nhân giữa anh Q và chị L là hợp pháp.

thấy:

[2.2] Xét yêu cầu xin ly hôn của chị Lê Thị Hồng L, Hội đồng xét xử xét Chị L và anh Q kết hôn từ năm 2015. Quá trình chung sống với nhau hạnh phúc được một thời gian, sau đó phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do anh Q không lo làm ăn, ham chơi, hay cầm cố tài sản và không quan tâm đến vợ con. Trên thực tế vợ chồng đã sống ly thân, không quan tâm gì đến nhau nữa. Tại phiên tòa, chị L vẫn cương quyết ly hôn với anh Q, phía anh Q cũng đã đồng ý ly hôn với chị L đồng thời có đơn xin xét xử vắng mặt thể hiện sự bỏ mặc, không muốn đoàn tụ. Nhận thấy, tình nghĩa vợ chồng giữa chị L và anh Q không còn, hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Do đó, căn cứ vào Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị L. Cho chị L được ly hôn với anh Q.

[2.3] Về con chung: Chị L và anh Q có 02 con chung là Phan Ngọc An N, sinh ngày 12/7/2016 và Phan Ngọc Anh T, sinh ngày 08/01/2019, hiện cả hai cháu đang ở với chị L.

Tại bản tự khai ngày 24/12/2021, bị đơn là anh Phan Đình Q trình bày nguyện vọng của anh là giao 2 con chung cho chị L trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng do hiện tại anh đang thất nghiệp không có khả năng nuôi con.Tại phiên tòa, chị L vẫn giữ nguyên ý kiến, nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng hai con chung. Nhận thấy, cháu N và cháu T là người chưa thành niên, nên chị L và anh Q phải có nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu đến thành niên khi ly hôn. Do đó, căn cứ vào Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử cần ghi nhận ý kiến tự nguyện của các bên: Giao hai cháu Phan Ngọc An N và Phan Ngọc Anh T cho chị L tiếp tục trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến khi các cháu đủ 18 tuổi là phù hợp.

[2.4] Về cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn: Chị L chưa yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[2.5] Về tài sản chung và nợ chung: Chị L và anh Q xác định vợ chồng không có tài sản chung và không có nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[2.6] Về án phí: Chị L phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Bởi các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, Điểm a Khoản 1 Điều 35, Điểm a Khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 227, khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Áp dụng Điều 51, Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Chấp nhận đơn khởi kiện của nguyên đơn là chị Lê Thị Hồng L đối với anh Phan Đình Q về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con”.

Chị Lê Thị Hồng L được ly hôn anh Phan Đình Q.

2. Về con chung: Giao 02 con chung là Phan Ngọc An N, sinh ngày 12/7/2016 và Phan Ngọc Anh T, sinh ngày 08/01/2019 cho chị L trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục, cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom mà không ai được cản trở.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, được bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung Luật thi hành án dân sự năm 2014, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự và Điều 7a, 7b Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi hành án dân sự năm 2004; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Chị L và anh Q xác định vợ chồng không có tài sản chung và không có nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

4. Về án phí:

Chị L phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm gồm 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu số 0000559 ngày 11/10/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Huế. Chị L đã nộp đủ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Án xử sơ thẩm công khai báo cho nguyên đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

229
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 09/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:09/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Huế - Thừa Thiên Huế
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về