TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TỨ KỲ, TỈNH HẢI DƯƠNG
BẢN ÁN 06/2024/HNGĐ-ST NGÀY 29/03/2024 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 29 tháng 3 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 33/2024/TLST-HNGĐ ngày 19 tháng 02 năm 2024 về “Ly hôn, tranh chấp nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2024/QĐXXST-HNGĐ ngày 12 tháng 3 năm 2024; giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Vũ Thị A, sinh năm 1992; Nơi ĐKHKTT: Thôn Mỹ Â, xã Văn T, huyện Tứ K, tỉnh Hải Dương; Nơi cư trú: Thôn Quảng X, xã Chí M, huyện Tứ K, tỉnh Hải Dương
Bị đơn: Anh Bùi Trọng V, sinh năm 1980; Nơi ĐKHKTT: Thôn Mỹ Â, xã Văn T, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương, tỉnh Hải Dương. Hiện đang chấp hành án tại Trại giam Quảng Ninh; Địa chỉ: xã H, huyện Đ, tỉnh Quảng Ninh.
(Chị A, anh V đều đề nghị xét xử vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và bản tự khai cùng các tài liệu khác có trong hồ sơ, nguyên đơn chị Vũ Thị A trình bày: Chị và anh Bùi Trọng V kết hôn hoàn toàn tự nguyện, được UBND xã Văn Tố cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn vào ngày 26/10/2011, sau ngày cưới cuộc sống vợ chồng vui vẻ hạnh phúc đến năm 2012 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, thường xuyên xẩy ra cãi nhau, không tôn trọng nhau, vợ chồng không quan tâm đến nhau.
Năm 2013 chị đã về nhà bố mẹ đẻ sinh sống, anh V đi đâu làm gì chị không biết, anh không quan tâm tới chị và con, anh chị sống ly thân. Tháng 6/2022 anh V vi phạm pháp luật, hiện anh đang chấp hành án tại Trại giam Quảng Ninh, chị cũng không lên thăm gặp. Nay chị xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị làm đơn khởi kiện xin ly hôn anh V.
Về con chung: Chị và anh V có một con chung là Bùi Quang V, sinh ngày 07/02/2012. Hiện nay con chung đang ở với chị. Vợ chồng ly hôn chị đề nghị được nuôi con và không yêu cầu anh V phải cấp dưỡng cho con.
Về tài sản chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại biên bản lấy lời khai bị đơn Bùi Trọng V trình bày: Anh và chị Vũ Thị A kết hôn với nhau là tự nguyện, được UBND xã Văn Tố cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn. Sau khi kết hôn cuộc sống vợ chồng vui vẻ hạnh phúc được 02 năm, do kinh tế gia đình khó khăn anh đi làm xa, Chị A đã đưa con về nhà bố mẹ đẻ sinh sống và tự ý đi nước ngoài không nói gì với anh. Khi biết chuyện anh có nói nhưng Chị A coi thường lời nói của anh, kể từ đó anh chị không liên lạc gì với nhau nữa, anh chị đã sống ly thân 10 năm nay. Năm 2022 anh vi phạm pháp luật bị Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long xử phạt 30 tháng tù, hiện nay anh đang chấp hành án tại Trại giam Quảng Ninh, từ khi anh đi chấp hành án đến nay Chị A cũng chưa lần nào đến thăm gặp, hỏi thăm sức khỏe anh mà khi Chị A làm đơn xin ly hôn mới đến để thông báo cho anh biết. Nay Chị A có đơn xin ly hôn anh không nhất trí, anh xác định vợ chồng có hàn gắn được hay không là do chị, chị cho anh cơ hội, anh kết hôn với chị là lần 2 nên anh mong muốn vợ chồng đoàn tụ để nuôi con.
Về con chung: Anh và Chị A có một con chung là Bùi Quang V, sinh ngày 07/02/2012. Hiện nay cháu đang ở với Chị A. Nếu Chị A kiên quyết xin ly hôn, cháu Vinh ở với ai là quyền của cháu, anh không có ý kiến gì.
Tại biên bản lấy lời khai bà Nguyễn Thị Huần trình bày: Bà là mẹ đẻ của anh V, sau khi anh V, Chị A kết hôn với nhau, anh chị sống cùng nhà với bà nhưng ăn riêng. Cuộc sống vợ chồng vui vẻ hạnh phúc được 02 năm thì Chị A đã cho con về ngoại sinh sống còn anh V đi làm nay đây mai đó, vợ chồng có liên lạc với nhau hay không bà không biết, anh chị đã không sống cùng nhau 10 năm nay. Năm 2022 anh V vi phạm pháp luật và hiện đang chấp hành án tại Trại giam Quảng Ninh, Chị A không quan tâm gì đến chồng và gia đình nhà chồng. Nay Chị A có đơn xin ly hôn anh V, việc ly hôn là của anh chị bà không can thiệp, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
Kết quả xác minh tại Uỷ ban nhân dân xã Văn Tố, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương xác định: Anh V và Chị A kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, được UBND xã Văn Tố cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn vào ngày 26/10/2011. Sau khi kết hôn anh chị sinh sống tại địa phương được thời gian ngắn, chị đã cho con về quê mẹ đẻ sinh sống, anh V đi làm ăn ở đâu, địa phương không nắm được, anh chị không sinh hoạt hội đoàn thể nào ở địa phương nên mâu thuẫn vợ chồng anh chị địa phương không can thiệp, hòa giải . Năm 2022 anh V vi phạm pháp luật, hiện đang chấp hành án tại trại giam Quảng Ninh. Theo quan điểm của địa phương nếu Chị A kiên quyết xin ly hôn anh V, đề nghị Toà án giải quyết theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa: Chị A, anh V đề nghị xét xử vắng mặt và giữ nguyên quan điểm như đã trình bày.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương phát biểu quan điểm: Thẩm phán, Hội đồng xét xử (HĐXX), Thư ký phiên tòa và nguyên đơn, bị đơn đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Đề nghị HĐXX áp dụng các điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28, Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Nghị Quyết 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận đơn khởi kiện của chị Vũ Thị A, đề nghị xử cho chị Vũ Thị A ly hôn anh Bùi Trọng V; Về con chung: Giao cho chị Vũ Thị A trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con là Bùi Quang V, sinh ngày 07/02/2012 đến khi con đủ 18 tuổi. Chấp nhận sự tự nguyện của Chị A không yêu cầu anh V phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho con. Về án phí: Chị A phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu và chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra công khai tại phiên toà, Hội đồng xét xử thấy:
[1] Về tố tụng: Chị Vũ Thị A khởi kiện ly hôn anh Bùi Trọng V; nơi cư trú trước khi đi chấp hành án tại xã văn Tố, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự; Tòa án nhân dân huyện Tứ Kỳ thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền.
Trong quá trình giải quyết do anh V đang chấp hành án tại Trạm giam nên không thể đến Tòa án làm việc được, anh V đã có lời khai trình bày quan điểm và xin vắng mặt nên Tòa án không tiến hành hòa giải được. Tại phiên tòa Chị A, anh V đều đề nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự. Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt các đương sự.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Vũ Thị A và anh Bùi Trọng V kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Văn Tố, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương ngày 26/10/2011. Như vậy, quan hệ hôn nhân giữa Chị A và anh V là hôn nhân hợp pháp. Căn cứ lời khai của Chị A, anh V, bà Huần biên bản xác minh tại địa phương, HĐXX xác định trong cuộc sống anh chị đã có mâu thuẫn, có thời gian dài sống ly thân. Nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, vợ chồng không tôn trọng nhau, không quan tâm đến nhau. Do vợ chồng mâu thuẫn nên anh chị không liên lạc gì với nhau, thời gian anh V đi chấp hành án ở trại giam Chị A cũng không đến thăm anh và anh chị cũng không có biện pháp gì để cải thiện mối quan hệ vợ chồng. Từ những căn cứ trên Hội đồng xét xử xét thấy thực tế tình trạng hôn nhân giữa Chị A và anh V đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được.Vì vậy, căn cứ các Điều 51, 56 Luật Hôn nhân và gia đình, xử cho Chị A ly hôn anh V là phù hợp.
[3] Về con chung: Chị A và anh V có một con chung là Bùi Trọng Vinh, sinh ngày 07/02/2012. Khi ly hôn Chị A đề nghị Tòa án giao con Bùi Trọng Vinh cho chị trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và chị tự nguyện không yêu cầu anh V phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho con. Anh V có quan điểm đề nghị Tòa án giải quyết theo nguyện vọng của con. Xét thấy: Cháu Vinh đang ở ổn định với Chị A, nguyện vọng của cháu được ở với chị và hiện tại anh V đang đi chấp hành án không có nhà. Do vậy, HĐXX cần giao con chung Bùi Trọng Vinh cho Chị A tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng, chấp nhận sự tự nguyện của Chị A không yêu cầu anh V phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho con là phù hợp quy định tại Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và Gia đình.
[4] Về tài sản chung: Chị A, anh V không yêu cầu giải quyết.
[5] Về án phí: Chị A khởi kiện xin ly hôn nên phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các điều: 51, 56, 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình;
khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án.
1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Vũ Thị A ly hôn anh Bùi Trọng V.
2. Về con chung: Giao cho chị Vũ Thị A trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung là Bùi Quang V, sinh ngày 07/02/2012 cho đến khi con đủ 18 tuổi. Chấp nhận sự tự nguyện của Chị A, không yêu cầu anh V phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.
Anh Bùi Trọng V có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở.
3. Về án phí: Chị Vũ Thị A phải chịu 300.000 đồng án phí dân sơ thẩm (Hôn nhân gia đình) được đối trừ số tiền chị đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai số 0004802 ngày 19/02/2024 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương. Chị A đã thực hiện xong nghĩa vụ án phí.
4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày được giao bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết./.
Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 06/2024/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 06/2024/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tứ Kỳ - Hải Dương |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 29/03/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về