Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 04/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẮC TÂN UYÊN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 04/2022/HNGĐ-ST NGÀY 22/03/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 22 tháng 3 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 21/2022/TLST-HNGĐ ngày 25 tháng 01 năm 2022 về Ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 07/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 09 tháng 3 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Văn Cẩm T, sinh năm 1982; địa chỉ: Ấp C, xã T1, huyện B, tỉnh Bình Dương. Có đơn xin vắng mặt.

- Bị đơn: Ông Nguyễn T, sinh năm 1987; địa chỉ: Ấp C, xã T1, huyện B, tỉnh Bình Dương. Có đơn xin vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Bà Văn Cẩm T có đơn xin giải quyết vắng mặt. Tuy nhiên, theo đơn khởi kiện ngày 28 tháng 12 năm 2021, Bản tự khai ngày 08 tháng 01 năm 2022 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Văn Cẩm T trình bày:

Bà Văn Cẩm T và ông Nguyễn T có thời gian tìm hiểu khoảng 05 năm thì tự nguyện tiến tới hôn nhân và có đăng ký kết hôn ngày 02/11/2011 tại UBND xã Pơng Drang, huyện Krông Bok, tỉnh Đắk Lắk. Trong thời gian chung sống, từ năm 2018 đến nay vợ chồng xảy ra mâu thuẫn do ông T không đi làm, thường xuyên tụ tập bạn bè ăn nhậu. Bà T đã nộp đơn xin ly hôn 02 lần trước đây nhưng do thương con nên bà T đã rút đơn và nhiều lần cố gắng hàn gắn, khuyên nhủ để ông T lo làm việc kiếm thu nhập nhưng ông T không thay đổi. Do đó từ tháng 10/2021 đến nay, vợ chồng đã không còn chung sống, bà T vẫn sống cùng hai con còn ông T ra ngoài thuê trọ ở. Trong thời gian ly thân, ông T không quan tâm chăm sóc vợ con mà chỉ thỉnh thoảng về thăm con. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nên bà T yêu cầu được ly hôn với ông Nguyễn T.

Về con chung: Có 02 con chung là cháu Nguyễn Ngọc Bảo H, sinh ngày 16/4/2012 và cháu Nguyễn Văn Tuấn H1, sinh ngày 01/7/2018. Khi ly hôn, bà T yêu cầu nuôi dưỡng cả hai cháu và không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nghĩa vụ chung về tài sản: Vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Bị đơn ông Nguyễn T có đơn xin giải quyết vắng mặt. Tuy nhiên, theo Bản tự khai ngày 15/02/2022 và trong quá trình giải quyết vụ án ông Nguyễn T có ý kiến trình bày :

Ông Nguyễn T thống nhất như trình bày của bà Văn Cẩm T về thời gian tìm hiểu, thời gian đăng ký kết hôn. Vợ chồng phát sinh mâu thuẫn từ năm 2018 đến nay do ông T thường hay ăn nhậu. Ông T đã nhiều lần xin lỗi bà T và hiện nay ông T đã đi làm trở lại nên mong bà T cho ông T cơ hội để cùng nhau xây dựng gia đình. Từ tháng 10/2021 đến nay, ông T ra ngoài thuê trọ sống một mình. Trong thời gian vợ chồng ly thân, khoảng 01 đến 02 tuần ông T về thăm con một lần. Do ông T vẫn còn tình cảm với bà Văn Cẩm T nên không đồng ý ly hôn theo yêu cầu của bà T.

Về con chung: Có 02 con chung là cháu Nguyễn Ngọc Bảo H, sinh ngày 16/4/2012 và cháu Nguyễn Văn Tuấn H1, sinh ngày 01/7/2018. Trường hợp Tòa án giải quyết cho hai ông bà ly hôn thì ông T thống nhất giao hai con chung cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng và ông sẽ cấp dưỡng mỗi tháng 4.000.000 đồng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi.

Về tài sản chung: Vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nghĩa vụ chung về tài sản: Vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương tham gia phiên tòa:

Trong quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý cho đến tại phiên tòa sơ thẩm Tòa án đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật.

Về hôn nhân, bà Văn Cẩm T và ông Nguyễn T có đăng ký kết hôn nên đây là hôn nhân hợp pháp. Vợ chồng sống không hạnh phúc, nguyên nhân do ông T không đi làm và thường xuyên ăn nhậu khiến tình cảm vợ chồng không hàn gắn được, mục đích hôn nhân không đạt đươc. Do đo việc nguyên đơn yêu cầu ly hôn với bị đơn va yêu câu giai quyêt vê con chung là có cơ sở chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản nguyên đơn không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về điều kiện thụ lý vụ án: Bà Văn Cẩm T khởi kiện yêu cầu được ly hôn với ông Nguyễn T, ông T cư trú tại Ấp C, xã T1, huyện B, tỉnh Bình Dương nên đây là vụ án ly hôn, tranh chấp nuôi con thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương được quy định tại khoản 1 Điều 28 và khoản 1 Điều 35 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về việc vắng mặt của đương sự: Nguyên đơn bà Văn Cẩm T, bị đơn ông Nguyễn T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa nhưng nguyên đơn và bị đơn có đơn xin giải quyết vắng mặt nên căn cư theo Điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt các đương sự.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Bà Văn Cẩm T và ông Nguyễn T là vợ chồng, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Pơng Drang, huyện Krông Bok, tỉnh Đắk Lắk vào ngày 02/11/2011 theo Giấy chứng nhận kết hôn số 164 là quan hệ hôn nhân hợp pháp.

Bà Văn Cẩm T xác định quá trình chung sống với ông Nguyễn T không hạnh phúc. Nguyên nhân là do ông T không đi làm mà thường xuyên ăn nhậu không chăm lo cho vợ con. Ông T cho rằng vẫn còn tình cảm nhưng không đưa ra được phương án hòa giải giữa hai vợ chồng. Hiện nay, vợ chồng bà T và ông T đã ly thân từ tháng 10 năm 2021. Qua đó thấy rằng mâu thuẫn vợ chồng của bà T và ông T đã thật sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, bà Văn Cẩm T yêu cầu ly hôn là có căn cứ, phù hợp với quy định của Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình nên được chấp nhận.

[4] Về con chung: Quá trinh chung sông bà T và ông T có 02 con chung là cháu Nguyễn Ngọc Bảo H, sinh ngày 16/4/2012 và cháu Nguyễn Văn Tuấn H1, sinh ngày 01/7/2018. Bà T và ông T đều cùng quan điểm về việc giao hai con chung cho bà T có quyền trực tiếp nuôi dưỡng. Đối với tiền cấp dưỡng nuôi con, bà T không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Do đó, cần giao hai con chung cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng và ông T không phải cấp dưỡng nuôi con.

[5] Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Đương sự không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Xét đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Tân Uyên tại phiên tòa về quan điểm giải quyết vụ án là phù hợp với quy định của pháp luật nên được chấp nhận.

[7] Án phí dân sự: Bà Văn Cẩm T phải chịu án phí dân sư sơ thâm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 4 Điều 147, 228, 271, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ các Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 và Điều 110 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

Căn cứ Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Văn Cẩm T được ly hôn với ông Nguyễn T.

2. Về con chung:

- Giao cháu Nguyễn Ngọc Bảo H, sinh ngày 16/4/2012 và cháu Nguyễn Văn Tuấn H1 sinh ngày 01/7/2018 cho bà Văn Cẩm T trực tiếp nuôi dưỡng. Ông Nguyễn T không phải cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn, bà Văn Cẩm T và ông Nguyễn T có quyền chăm sóc, thăm nom, giáo dục con chung, không ai có quyền cản trở thực hiện quyền này. Trường hợp ông T lạm dụng việc đi lại, thăm nom con gây ảnh hưởng xấu đến việc nuôi con thì bà T có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của ông T theo quy định của pháp luật. Vì quyền lợi hợp pháp của con, Tòa án có thể thay đổi người trực tiếp nuôi con và vấn đề cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

3. Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Bà Văn Cẩm T và ông Nguyễn T không yêu cầu nên Tòa án không xem xét, giải quyết.

4. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Văn Cẩm T phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí về ly hôn được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2016/0009813 ngày 17/12/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.

5. Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

136
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 04/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:04/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bắc Tân Uyên - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về