TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH CỬU, TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 03/2024/HNGĐ-ST NGÀY 29/01/2024 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 29 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Đ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 437/2023/TLST – HNGĐ ngày 30 tháng 10 năm 2023, về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 86/2023/QĐXXST-HNGĐ ngày 25/12/2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số 05/2024/QĐST – HNGĐ ngày 16/01/2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Kim Ng, sinh năm 1982.
Địa chỉ thường trú: 42/4, tổ 39, KP6, phường Tân Mai, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đ.
Địa chỉ cư trú hiện nay: Quán ăn Làng Bé, số 11/1B, Khu phố 1, phường Thống Nhất, Thành phố Biên Hòa, tỉnh Đ.
- Bị đơn : Ông Nguyễn Công H, sinh năm 1973.
Địa chỉ: Tổ 1, ấp Bàu Phụng, xã Phú Lý, huyện V, tỉnh Đ.
(Bà Nguyễn Thị Kim Ng có đơn xin xét xử vắng mặt; Ông Nguyễn Công H vắng mặt không có lý do).
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Theo đơn khởi kiện, bản tự khai nguyên đơn bà Nguyễn Thị Kim Ng trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Bà và ông Nguyễn Công H kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức đám cưới và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Tân Mai, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đ, được cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 142/2009 ngày 30/10/2009 vào sổ quyển số 01/2009. Về mặt tình cảm, từ giai đoạn sống chung cả hai đã liên tục phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do ông H là người gia trưởng, bảo thủ, không có sự cảm thông, chia sẻ trong gia đình đồng thời hay gây gỗ vô cớ dẫn đến tình cảm vợ chồng sứt mẻ, thiếu sự tôn trọng đối với nhau, vợ chống cũng vì thế mà thường xuyên bất đồng quan điểm sống, cả hai đã từ lâu không còn tiếng nói chung; vì muốn các con có đầy đủ cả cha và mẹ nên cả hai đã nhiều lần cố gắng hòa giải, nhưng tình cảm vẫn không được cải thiện, hôn nhân vợ chồng luôn trong trạng thái căng thẳng. Bà và ông H đã sống ly thân nhiều năm.
Nay nhận thấy tình cảm với chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, nên bà làm đơn xin được ly hôn với ông Nguyễn Công H.
Về con chung: Có 01 con chung là cháu Nguyễn Ng H Anh, sinh ngày 14/10/2011. Sau khi ly hôn, bà Ng yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cháu H Anh đồng thời không yêu cầu ông H pH cấp dưỡng nuôi con chung. Về điều kiện để yêu cầu nuôi cháu H Anh bà cam kết bà đủ điều kiện vì hiện tại bà đang có công việc tự do ổn định với mức lương được trả là 10 triệu đồng/1 tháng tại một nhà hàng lớn ở Thành phố Biên Hòa.
Về tài sản chung: Bà Nguyễn Thị Kim Ng khai hai vợ chồng không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về nợ chung: Bà Nguyễn Thị Kim Ng khai hai vợ chồng không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Lời khai của bị đơn ông Nguyễn Công H: Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo địa chỉ mà nguyên đơn cung cấp cũng như địa chỉ cư trú theo kết quả trả lời xác minh về thông tin cư trú của chính quyền địa phương, nhưng ông H vẫn vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án, không nộp bản tự khai, không có văn bản giải trình, không đến Tòa án làm việc và tham gia phiên tòa. Vì vậy, không có lời trình bày.
- Ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân huyện V:
Về việc kiểm sát chấp hành pháp luật tố tụng: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử trong quá trình giải quyết vụ án đảm bảo theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng Dân sự. Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Tòa án đã tiến hành đầy đủ các thủ tục theo quy định pháp luật.
Về việc giải quyết tranh chấp: Đề nghị chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận cho bà Nguyễn Thị Kim Ng được ly hôn với ông Nguyễn Công H vì từ khi kết hôn đã phát sinh mâu thuẫn, dù đã cố gắng khắc phục để sống chung nhưng không có kết quả, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, đời sống hôn nhân không đạt được.
Về con chung: Bà Ng và ông H trong thời kỳ hôn nhân có 01 con chung là cháu Nguyễn Ng H Anh, sinh ngày 14/10/2011. Do cháu Nguyễn Ng H Anh có bản tự khai thể hiện nguyện vọng muốn được ở với bà Ng, đồng thời bà Ng cũng thể hiện đủ điều kiện để chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục tốt cháu H Anh; do đó chấp nhận cho yêu cầu của bà Nguyễn Thị Kim Ng được nuôi dưỡng cháu H Anh, cũng như phù hợp với nội dung xác minh của Tòa án nhân dân huyện V về người con đang trực tiếp sinh sống cùng ông H .
Về cấp dưỡng, tạm thời ông Nguyễn Công H không pH cấp dưỡng nuôi con chung do bà Ng không yêu cầu.
Về tài sản chung: Khi ly hôn, bà Nguyễn Thị Kim Ng khai hai vợ chồng không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án pH giải quyết.
Về nợ chung: Khi ly hôn, bà Nguyễn Thị Kim Ng xác định cả hai vợ chồng không có nợ chung, nên không yêu cầu Tòa án pH giải quyết.
Tuy nhiên, do ông Nguyễn Công H vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án, Tòa án chưa ghi nhận được ý kiến của ông H, nên sẽ được giải quyết bằng một vụ án khác khi các đương sự có yêu cầu.
Về án phí: Bà Nguyễn Thị Kim Ng pH chịu án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định pháp luật.
[1]. Về tố tụng:
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1.1]. Về quan hệ tranh chấp: Bà Nguyễn Thị Kim Ng khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn, tranh chấp về nuôi con với ông Nguyễn Văn Sơn, Hội đồng xét xử xác định đây là quan hệ “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[1.2]. Về thẩm quyền giải quyết: Theo địa chỉ trong đơn khởi kiện và biên bản xác minh tại Công an xã Phú Lý, huyện V cung cấp thông tin ông Nguyễn Công H hiện đang sinh sống thường xuyên tại địa chỉ: Tổ 1, ấp Bàu Phụng, xã Phú Lý, huyện V, tỉnh Đ, nên căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện V, tỉnh Đ.
[1.3]. Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn xin xét xử vắng mặt. Đối với bị đơn Tòa án đã tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án; thông báo về việc thu thập tài liệu, chứng cứ; thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Quyết định đưa vụ án ra xét xử; Quyết định hoãn phiên tòa nhưng bị đơn vẫn vắng mặt không có lý do. Do đó, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn theo quy định tại Điều 227, 228 và Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2]. Về quan hệ hôn nhân:
[2.1]. Bà Nguyễn Thị Kim Ng và ông Nguyễn Công H kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức đám cưới và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Tân Mai, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đ, được cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 142/2009 ngày 30/10/2009 vào sổ quyển số 01/2009, nên xác định đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp.
[2.2]. Quá trình tố tụng bà Ng xác định giữa bà và ông H phát sinh mâu thuẫn không thể hàn gắn được. Nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm, tính tình không hợp, ông H là người gia trưởng, độc đoán thường xuyên gây gỗ vô cớ dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi vã, không còn tôn trọng lẫn nhau, mặc dù đã cố gắng hàn gắn nhưng tình cảm vợ chồng vẫn không cải thiện, đời sống tình cảm luôn trong trạng thái căng thẳng. Quá trình giải quyết vụ án Tòa án tiến hành hòa giải nhưng ông H vẫn cố tình không đến Tòa án để làm việc, như vậy thể hiện phía bị đơn không còn quan tâm đến hôn nhân với bà Ng. Mặt khác, qua xác minh tình trạng hôn nhân giữa hai vợ chồng tại nơi cả hai đã từng cư trú, mặc dù địa phương không nắm được mâu thuẫn, nhưng việc cả hai đã sống ly thân, không có sự tương tác trong quan hệ hôn nhân, không có trách nhiệm xây dựng hạnh phúc gia đình cùng nhau, mặc ai người nấy sống, điều đó thể hiện lời trình bày của bà Ng là có căn cứ.
Hội đồng xét xử xét thấy quan hệ hôn nhân giữa bà Ng và ông H đã vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng theo Điều 19 Luật hôn nhân gia đình năm 2014. Xét thấy, hôn nhân giữa cả hai đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên xét chấp nhận yêu cầu của bà Nguyễn Thị Kim Ng xin ly hôn với ông Nguyễn Công H là phù hợp với khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân gia đình năm 2014.
[3]. Về con chung: Bà Nguyễn Thị Kim Ng và ông Nguyễn Công H trong thời kỳ hôn nhân có 01 con chung là cháu Nguyễn Ng H Anh, sinh ngày 14/10/2011. Ly hôn bà Ng có nguyện vọng được nuôi dưỡng cháu H Anh. Theo quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì pH xem xét nguyện vọng của con”. Do cháu Nguyễn Ng H Anh có bản tự khai thể hiện nguyện vọng muốn được ở với bà Ng, đồng thời bà Ng cũng thể hiện đủ điều kiện để chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục tốt đối với cháu H Anh; Ông H không lên Tòa làm việc, không ghi nhận được nguyện vọng của ông H về việc nuôi con chung, nhưng để đảm bảo cuộc sống của cháu H Anh được ổn định, việc xem xét để ai trực tiếp nuôi con cần đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con chưa thành niên nên Hội đồng xét xử quyết định giao cháu H Anh cho bà Ng được tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp với quy định tại Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.
Ông Nguyễn Công H không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung, không ai được cản trở ông H, thực hiện các quyền, nghĩa vụ này. Khi cần thiết, vì lợi ích của con, một hoặc cả hai bên đều có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.
Về cấp dưỡng nuôi con chung: Bà Nguyễn Thị Kim Ng không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung đối với ông Nguyễn Công H đồng thời ông H cũng không lên Tòa làm việc và không ghi nhận được nguyện vọng của H nên không xem xét giải quyết.
[4]. Về tài sản chung và nợ chung: Bà Nguyễn Thị Kim Ng khai về tài sản chung hai vợ chồng không có; Về nợ chung, cũng khai không có, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tuy nhiên. Do ông Nguyễn Công H vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án, Tòa án chưa ghi nhận được ý kiến của ông H, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xát giải quyết.
[5]. Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện V là có căn cứ và phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.
[6]. Về án phí: Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bà Nguyễn Thị Kim Ng pH nộp 300.000đồng án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39; Điều 144; Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 238, Điều 266, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Căn cứ các Điều 9; Điều 11; Điều 12 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000; Căn cứ Điều 8, Điều 9, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83; khoản 1 Điều 131 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
Căn cứ khoản 8 Điều 26, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án năm 2016.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Kim Ng về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con với bị đơn ông Nguyễn Công H.
1.1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Kim Ng được ly hôn với ông Nguyễn Công H.
1.2. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Ng H Anh, sinh ngày 14/10/2011 cho bà Nguyễn Thị Kim Ng trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. Tạm thời ông Nguyễn Công H không pH cấp dưỡng nuôi con chung.
Sau khi ly hôn, ông Nguyễn Công H không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trợ. Khi cần thiết, vì lợi ích của con, một hoặc cả hai bên đều có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung.
1.3. Về tài sản chung: Không đặt ra xem xét giải quyết.
1.4. Về nợ chung: Không đặt ra xem xét giải quyết.
2. Về án phí: Bà Nguyễn Thị Kim Ng pH nộp 300.000đ án phí, được trừ vào số tiền 300.000đ tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai số 0005621 ngày 26/10/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện V. Bà Nguyễn Thị Kim Ng đã nộp đủ án phí.
Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người pH thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu yêu cầu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
3. Về quyền kháng cáo: Đương sự có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.
Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 03/2024/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 03/2024/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Cửu - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 29/01/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về