Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 03/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH GIANG, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 03/2022/HNGĐ-ST NGÀY 30/03/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 30 tháng 3 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bình Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 141/2021/TLST-HNGĐ ngày 25 tháng 10 năm 2021 về Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 05/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 14 tháng 3 năm 2022, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Lê Thị Ph, sinh năm 1989.

Đăng ký HKTT: Xã V, huyện B, tỉnh Hải Dương.

Nơi ở hiện tại: Thôn T, phường M, Thị xã M, tỉnh Hưng Yên. Có mặt tại phiên tòa.

Bị đơn: Anh Vũ Đình Đ, sinh năm 1982.

Địa chỉ: Thôn M, xã V, huyện B, tỉnh Hải Dương. Có mặt tại phiên tòa.

Người làm chứng:

Bà Bùi Thị Ch, sinh năm 1970.

Địa chỉ: Thôn T, phường M, Thị xã M, tỉnh Hưng Yên. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản lấy lời khai và tại phiên tòa nguyên đơn là chị Lê Thị Ph trình bày:

Chị Lê Thị Ph và anh Vũ Đình Đ kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Vĩnh Hồng vào ngày 10/7/2019. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh chị không hợp nhau về tư tưởng, phong cách sống. Ngoài ra 2 bên gia đình cũng không phù hợp. Do vậy, vợ chồng đã sống ly thân từ khoảng tháng 5/2021 cho đến nay và không có bất cứ giải pháp nào khắc phục mâu thuẫn. Chị hiện tại vẫn sống tại gia đình bố mẹ đẻ của chị ở Thôn T, phường M, còn anh Đ thì sống tại thôn M xã V. Chị xác định đến nay tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống chung thực tế đã chấm dứt, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Đ.

Về con chung: Chị và anh Đ có 01 con chung là Vũ Hồng N, sinh ngày 23/4/2020, đang được chị nuôi dưỡng. Vì con còn nhỏ, chị yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung cho đến khi con đủ 18 tuổi và tự nguyện không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi con hàng tháng.

Về tài sản chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn là anh Vũ Đình Đ khai:

Về quan hệ hôn nhân: Anh và chị Lê Thị Ph kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn như chị Ph trình bày. Trong quá trình chung sống, vợ chồng anh nảy sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do chị Ph không có chính kiến, không phân biệt được đúng sai, hay bị tác động bởi suy nghĩ của bố mẹ đẻ. Do vậy, vợ chồng hay xảy ra cãi nhau và không thể nói chuyện, hòa giải. Từ tháng 5/2021, vợ chồng anh sống ly thân, chị Ph bỏ về nhà bố mẹ đẻ sống và kiên quyết không quay về chung sống với anh. Anh xác định không có giải pháp nào để khắc phục tình trạng vợ chồng hiện tại. Tuy nhiên, anh xác định tình cảm vợ chồng vẫn còn, anh không nhất trí ly hôn.

Về con chung: Vợ chồng anh có 01 con chung là Vũ Hồng N. Mặc dù đã được giải thích quy định của pháp luật về việc nuôi con dưới 36 tháng tuổi, anh vẫn có nguyện vọng được nuôi con với lý do chị Ph không đủ khả năng nuôi dưỡng con vì có bệnh về thần kinh, tâm thần.

Về tài sản chung: Anh không yêu cầu giải quyết.

Tòa án xác minh tại nơi cư trú của anh Đ, chính quyền địa phương cung cấp: Việc anh Đ, chị Ph có mâu thuẫn là sự thật và vợ chồng đã ly thân nhau được một thời gian.

Người làm chứng là bà Bùi Thị Ch, mẹ đẻ của chị Ph khai: chị Ph và anh Đ mâu thuẫn nhau, nên vợ chồng đã ly thân nhau được khoảng hơn 01 năm. Hiện tại, chị Ph đang sống tại gia đình bà Chiến cùng con chung của anh chị. Cháu Vũ Hồng N, con chung của anh chị, hiện tại khỏe mạnh, ngoan ngoãn. Trường hợp Tòa án hòa giải cho anh chị không thành, vẫn phải giải quyết cho anh chị ly hôn và giao con cho chị Ph nuôi dưỡng, thì bà sẽ giúp đỡ chị Ph trong việc nuôi dưỡng cháu Nhung.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phát biểu quan điểm:

Về việc chấp hành pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Thư ký Tòa án đã tuân thủ quy định của pháp luật trong thụ lý vụ án, xây dựng hồ sơ, đưa vụ án ra xét xử và các hoạt động tố tụng khác. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử tuân thủ đúng quy định của pháp luật trong điều hành phiên tòa; nguyên đơn, bị đơn chấp hành đúng pháp luật.

Về giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự, Nghị quyết 326/2016/QH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

- Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Lê Thị Ph và anh Vũ Đình Đ ly hôn.

- Về con chung: Giao cho chị Ph trực tiếp nuôi con Vũ Hồng N cho đến khi con đủ 18 tuổi. Chấp nhận sự tự nguyện của chị Ph không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng tiền nuôi con.

- Về tài sản chung, nợ chung: Không giải quyết vì đương sự không yêu cầu.

- Về án phí: Chị Lê Thị Ph phải chịu 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm và được đối trừ tiền tạm ứng án phí đã nộp.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về yêu cầu ly hôn của chị Lê Thị Ph:

Chị Lê Thị Ph và anh Vũ Đình Đ kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký tại Ủy ban nhân dân xã Vĩnh Hồng, nên quan hệ hôn nhân của anh chị là hợp pháp. Trong quá trình chung sống, vợ chồng đã nảy sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng không hợp nhau, thường xuyên bất đồng quan điểm. Từ tháng 5/2021, vợ chồng đã ly thân nhau, mỗi người ở một nơi. Mặc dù đã được gia đình hai bên hòa giải và động viên, nhưng anh chị vẫn không thể khắc phục được mâu thuẫn. Chị Ph kiên quyết không quay về chung sống với anh Đ, còn anh Đ thừa nhận tuy còn tình cảm với chị Ph nhưng không có giải pháp nào khắc phục mâu thuẫn. Như vậy, tình trạng mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nên cần xử cho chị Ph được ly hôn.

[2] Về con chung: Cháu Vũ Hồng N là con chung của chị Ph và anh Đ hiện chưa đủ 3 tuổi. Theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình thì con dưới 3 tuổi giao cho người mẹ trực tiếp nuôi dưỡng. Anh Đ không đồng ý với việc để chị Ph nuôi dưỡng, lý do chị Ph có bệnh thần kinh, tâm thần nhưng anh không cung cấp được chứng cứ chứng minh. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ vào quy định của Luật Hôn nhân và gia đình, xử giao con Vũ Hồng N cho chị Ph trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp.

Chị Ph tự nguyện không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng tiền nuôi con chung, nên cần chấp nhận. Anh Đ cũng không đề nghị Tòa án ghi nhận việc anh tự nguyện cấp dưỡng nuôi con, nên không xem xét.

[3] Về tài sản chung: Do các đương sự không yêu cầu nên Tòa án không xem xét giải quyết .

[4]. Về án phí: Chị Ph là nguyên đơn, phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/QH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Lê Thị Ph ly hôn anh Vũ Đình Đ.

2. Về con chung: Giao cho chị Lê Thị Ph trực tiếp nuôi con Vũ Hồng N, sinh ngày 23/4/2020 cho đến khi con đủ 18 tuổi.

Chấp nhận sự tự nguyện của chị Ph không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng tiền nuôi con.

Anh Đ có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được ngăn cản.

3. Về án phí: Chị Lê Thị Ph phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Giang, theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2020/0003772 ngày 25/10/2021. Chị Ph đã nộp đủ án phí.

Đương sự có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

305
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 03/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:03/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Giang - Hải Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về