TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ VĨNH CHÂU, TỈNH SÓC TRĂNG
BẢN ÁN 72/2021/HNGĐ-ST NGÀY 18/11/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN
Ngày 18/11/2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm, công khai vụ án dân sự thụ lý số: 69/2021/TLST-HNGĐ, ngày 12 tháng 3 năm 2021, về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con và cấp dưỡng”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 68/2021/QĐXXST-HNGĐ, ngày 08/7/2021; Thông báo về việc không xét xử vụ án số 106/2021/TB-TA ngày 20/7/2021; Thông báo về việc tiếp tục xét xử vụ án số 22/2021/TB-TA ngày 31/8/2021; Quyết định hoãn phiên tòa số 52/2021/QĐST-HNGĐ ngày 30/9/2021; Quyết định hoãn phiên tòa số 59/2021/QĐST-HNGĐ ngày 25/10/2021 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Thạch Thị Chanh T (Thạch Thị Chành T), sinh năm 1991; (Có đơn xin xét xử vắng mặt) Địa chỉ: ấp A, xã H, thị xã VC, tỉnh Sóc Trăng.
- Bị đơn: Anh Lý N, sinh năm 1993; (Vắng mặt) Địa chỉ: ấp A, xã H, thị xã VC, tỉnh Sóc Trăng.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện đề ngày 24/02/2021 (BL01), biên bản ghi lời khai ngày 26/4/2021(BL17) cũng như quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Thạch Thị Chanh T trình bày: Vào năm 2015 chị Thạch Thị Chanh T và anh Lý N có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, thị xã VC, tỉnh Sóc Trăng và được cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 27/4/2015. Sau kết hôn chị T về làm dâu bên nhà chồng tại ấp A, xã H, thị xã VC, tỉnh Sóc Trăng. Thời gian đầu hai vợ chồng chung sống với nhau rất hạnh phúc, thời gian sau thì vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn nguyên nhân là do anh N không lo chí thú làm ăn, thường xuyên ăn nhậu không chăm sóc vợ con, nên đến tháng 02 năm 2020 thì chị T có đơn khởi kiện sau đó rút lại đơn để hai vợ chồng đoàn tụ lại với nhau. Tuy nhiên sau khi trở về sống chung được một thời gian thì anh N lại tiếp tục rượu chè không lo làm ăn, không quan tâm đến vợ con. Trong quá trình chung sống với nhau có 01 con chung tên Lý Thị Diệu M, sinh ngày 30/3/2016 (nữ). Tài sản chung và nợ chung không có.
Nay chị T nhận thấy tình cảm vợ chồng rạn nứt, không còn hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được do đó yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị T được ly hôn với anh N. Về con chung cháu Lý Thị Diệu M, sinh ngày 30/3/2016 (nữ) đang sống chung với chị T nên chị T yêu cầu được tiếp tục, trực tiếp nuôi dưỡng con chung đến đủ 18 tuổi, yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000 đồng cho đến khi cháu M đủ 18 tuổi. Về tài sản chung, nợ chung không có, nên không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết. Đến ngày 29/10/2021 chị T có đơn xin xét xử vắng mặt và Thay đổi lại yêu cầu khởi kiện là không yêu cầu anh N phải cấp dưỡng nuôi con, các phần khác chị T vẫn giữ nguyên theo yêu cầu khởi kiện.
Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho anh N, nhưng anh N không có văn bản gửi đến Tòa án để trình bày ý kiến về yêu cầu khởi kiện của chị T, đồng thời anh N cũng không đến Tm gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cũng như Tm gia phiên tòa.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Vĩnh Châu phát biểu ý kiến: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán và Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã chấp hành đúng pháp luật tố tụng dân sự. Từ khi Tòa án thụ lý vụ án đến tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn chấp hành đúng pháp luật, tuy nhiên sự chấp hành pháp luật của bị đơn chưa đúng quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự.
Về nội dung giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận cho chị T được ly hôn với anh N. Về con chung: Giao con chung Lý Thị Diệu M, sinh ngày 30/3/2016 (nữ) cho chị T nuôi dưỡng đến khi cháu M đủ 18 tuổi. Về cấp dưỡng nuôi con chung: Ghi nhận sự tự nguyện của chị T không yêu cầu anh N phải cấp dưỡng nuôi con; Về tài sản chung, nợ chung: Không có, nên không đặt ra xem xét.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Tòa án đã tống đạt hợp lệ Giấy triệu tập xét xử đến lần thứ hai cho anh N, nhưng anh N vẫn vắng mặt không có lý do, chị T có đơn xin xét xử vắng mặt. Hội đồng xét xử căn cứ điểm a, b khoản 2 Điều 227, khoản 1, 3 Điều 228. Điều 238 của Bộ luật Tố tụng Dân sự xét xử vắng mặt chị T và anh N.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Xét yêu cầu khởi kiện của chị Thạch Thị Chanh T nhận thấy hôn nhân của chị T và anh N là tự tìm hiểu và đến với nhau, có tổ chức lễ cưới vào năm 2015 và có đi đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, thị xã VC, tỉnh Sóc Trăng và được cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 27/4/2015. Quan hệ hôn nhân của chị T và anh N không vi phạm các điều kiện kết hôn theo quy định tại Điều 8, Điều 9 Luật Hôn nhân và Gia đình nên được công nhận là hôn nhân hợp pháp. Nhưng sau một thời gian chung sống thì phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân chính là do anh N không lo chí thú làm ăn, không quan tâm đến vợ con, tính tình vợ chồng không còn hòa hợp với nhau thường hay xảy ra mâu thuẫn cãi vã nhau. Chị T nhận thấy cuộc sống chung không còn hạnh phúc, không còn tình cảm vợ chồng với anh N nên có nguyện vọng ly hôn. Tại đơn xin xét xử vắng mặt chị T vẫn kiên quyết ly hôn, từ đó cho thấy tình trạng hôn nhân giữa các bên trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận cho chị T được ly hôn với anh N.
[3] Về con chung: Thời gian chung sống với nhau chị T và anh N có 01 người con chung tên Lý Thị Diệu M, sinh ngày 30/3/2016 (nữ) chị T yêu cầu được nuôi dưỡng con chung đến đủ 18 tuổi. Để đảm bảo cuộc sống của cháu M không bị xáo trộn, để cháu phát triển bình thường về tâm, sinh lý nên Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình, giao cháu Lý Thị Diệu M, sinh ngày 30/3/2016 (nữ) cho chị T nuôi dưỡng.
[4] Về cấp dưỡng nuôi con: Chị T Ty đổi lại yêu cầu khởi kiện là không yêu cầu anh N phải cấp dưỡng nuôi con, việc chị T Ty đổi lại yêu cầu cấp dưỡng là không vượt quá phạm vi khởi kiện ban đầu nên được Hội đồng xét xử chấp nhận và ghi nhận sự tự nguyện của chị T không yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi con chung.
[5] Về tài sản chung: Chị T khẳng định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
[6] Về nợ chung: Chị T khẳng định nợ chung không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
[7] Từ những phân tích nêu trên, xét yêu cầu của nguyên đơn, đề nghị của Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Vĩnh Châu là có cơ sở nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[8] Án phí sơ thẩm: Chị T phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTV Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, Khoản 3 Điều 36, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm a, b khoản 2 Điều 227, khoản 1, 3 Điều 228, Điều 238, khoản 1 Điều 244, khoản 1 Điều 273, khoản 1 Điều 280 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.
Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.
Căn cứ vào điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Tu yên xử :
1/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Thạch Thị Chanh T đối với bị đơn anh Lý N.
- Về quan hệ hôn nhân: Chị Thạch Thị Chanh T được ly hôn với anh Lý N.
- Về con chung: Giao cháu Lý Thị Diệu M, sinh ngày 30/3/2016 (nữ) cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng đến khi cháu M đủ 18 tuổi.
Anh Lý N không phải cấp dưỡng nuôi con, anh N có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở. Anh N không được lạm dụng việc thăm nom con chung để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Lý Thị Diệu M của chị T thì chị T có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom.
- Về tài sản chung: Chị T khẳng định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
- Về nợ chung: Chị T khẳng định nợ chung không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
2/ Về án phí sơ thẩm: Chị Thạch Thị Chanh T phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị T đã nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo Biên lai số 0009366, ngày 10/3/2021 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã VC, tỉnh Sóc Trăng. Như vậy, chị T đã thực hiện xong nghĩa vụ nộp án phí. Anh Lý N không phải chịu án phí sơ thẩm.
3/ Về quyền kháng cáo: Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ, để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014); thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014).
Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 72/2021/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 72/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Vĩnh Châu - Sóc Trăng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 18/11/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về