TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẾN TRE, TỈNH BẾN TRE
BẢN ÁN 59/2021/HNGĐ-ST NGÀY 26/11/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN
Ngày 26 tháng 11 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố B, tỉnh Bến Tre mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 214/2021/TLST-HNGĐ ngày 25 tháng 6 năm 2021 về "Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 51/2021/QĐXXST- HNGĐ ngày 19 tháng 10 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 125/2021/QĐST-HNGĐ ngày 05 tháng 11 năm 2021, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Ngô Thị Ngọc D, sinh năm 1972;
HKTT: Số A khu phố M, phường B, thành phố B, tỉnh Bến Tre.
Cư trú: số B đường C, khu phố S, phường P, thành phố B, tỉnh Bến Tre.
- Bị đơn: Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1985;
Cư trú: Số A1 khu phố M, phường B, thành phố B, tỉnh Bến Tre. (Bà D có mặt; ông T vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, bản tự khai cùng các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án, nguyên đơn bà Ngô Thị Ngọc D trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Bà và ông Nguyễn Văn T kết hôn và đăng ký kết hôn vào năm 2011 tại Ủy ban nhân dân phường B, thành phố B, tỉnh Bến Tre. Hôn nhân do tự nguyện tìm hiểu. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại số nhà số A khu phố M, phường B, thành phố B, tỉnh Bến Tre. Sau đó, vợ chồng chuyển qua sinh sống tại nhà mẹ ruột bà D, địa chỉ số A1 khu phố M, phường B, thành phố B, tỉnh Bến Tre. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc. Đến tháng 4/2019 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, vợ chồng hay cãi nhau. Vợ chồng đã ly thân từ tháng 04/2019 đến nay, trong thời gian ly thân thì vợ chồng mạnh ai nấy sống, hiện nay bà đang buôn bán tạp hóa và sinh sống tại số B đường C, khu phố S, phường P, thành phố B. Nay bà xác định không còn tình cảm với ông T nên yêu cầu ly hôn với ông T.
Về con chung: Bà và ông T có với nhau 01 con chung tên Nguyễn Trường D, sinh ngày 19/9/2011; hiện nay con chung đang sống chung với mẹ ruột, ông T và con trai riêng của bà tại số A1 khu phố M, phường B, thành phố B, tỉnh Bến Tre. Sau khi ly hôn, bà yêu cầu trực tiếp nuôi con chung, không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung: Bà D khai không có, không yêu cầu giải quyết. Về nợ chung: Bà D khai không có.
Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn ông Nguyễn Văn T đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý, thông báo về phiên họp tiếp cận, công khai tài liệu chứng cứ, hòa giải và các văn bản tố tụng khác nhưng ông T vắng mặt.
Tại phiên tòa sơ thẩm:
Bà Ngô Thị Ngọc D trình bày: Bà yêu cầu được ly hôn ông Nguyễn Văn T; Về con chung: bà yêu cầu trực tiếp nuôi con, không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con; Về tài sản chung: bà D trình bày không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết; Về nợ chung: bà D trình bày không có.
Ông Nguyễn Văn T vắng mặt.
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:
Việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án và tại phiên tòa xét xử đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục được pháp luật quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự.
Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào các điều 56, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà D đối với bị đơn ông T, cụ thể: về quan hệ hôn nhân: Bà D được ly hôn với ông T;
Về con chung: Bà D được quyền trực tiếp nuôi cháu Nguyễn Trường D; bà D không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét;
Về tài sản chung: Bà D khai không có, không yêu cầu giải quyết nên không xem xét; Về nợ chung: Bà D khai không có nên không xem xét.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào lời trình bày của đương sự và phát biểu ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ pháp luật: Bà Ngô Thị Ngọc D khởi kiện yêu cầu ly hôn ông Nguyễn Văn T, đồng thời yêu cầu Tòa án giải quyết về con chung, ngoài ra bà D không có yêu cầu nào khác. Căn cứ đơn khởi kiện cùng các tài liệu chứng cứ trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử xác định đây là vụ án "Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn" theo quy định tại Điều 51 và Điều 53 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
[2] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Bà D khởi kiện yêu cầu ly hôn và tranh chấp nuôi con với ông T, đây là loại việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn ông Nguyễn Văn T có nơi cư trú tại khu phố M, phường B, thành phố B, tỉnh Bến Tre. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân thành phố Bến Tre có thẩm quyền giải quyền giải quyết vụ án.
[3] Về việc tham gia phiên tòa của đương sự: Ông T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt. Căn cứ Điều 227 và Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông T là phù hợp.
[4] Về quan hệ hôn nhân: Vào năm 2011, bà D và ông T tiến hành làm thủ tục đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường B, thành phố B, tỉnh Bến Tre. Việc đăng ký kết hôn giữa bà D và ông T là hoàn toàn tự nguyện, không bên nào bị ép buộc, đã tuân thủ đúng theo quy định tại Điều 9 và Điều 11 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 nên được xem là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ.
Tại đơn khởi kiện (BL 03) và Biên bản lấy lời khai ngày 19/10/2021 (BL 53, 54), bà D trình bày hiện nay vợ chồng chung sống không hạnh phúc, không còn quan tâm, yêu thương, chăm sóc lẫn nhau. Bên cạnh đó, quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập ông T đến để hòa giải nhằm hàn gắn tình cảm vợ chồng giữa ông và bà D nhưng ông T không có mặt. Ngoài ra, Tòa án cũng đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng và thông báo các tài liệu chứng cứ của bà D cho ông T biết nhưng ông T không có mặt cũng như không có ý kiến phản đối với yêu cầu ly hôn của bà D. Từ các tài liệu chứng cứ trên, Hội đồng xét xử xét thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa bà D và ông T đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà D theo khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 là phù hợp.
[5] Về con chung: Bà D khai bà và ông T có với nhau 01 con chung tên Nguyễn Trường D, sinh ngày 19/9/2011. Tại biên bản ghi nguyện vọng con chung, cháu D trình bày cháu có nguyện vọng được sống chung với mẹ (BL 61). Tại phiên tòa, bà D trình bày bà có nơi cư trú và nghề nghiệp ổn định, còn ông T đang sống tạm tại nhà mẹ ruột của bà, không có nghề nghiệp ổn định nên bà yêu cầu được trực tiếp nuôi con. Căn cứ Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình 2014, Hội đồng xét xử xét thấy để con chung phát triển ổn định, toàn diện cần giao cháu D cho bà D trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp. Ghi nhận sự tự nguyện của bà D tạm thời không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con.
[6] Về tài sản chung: Bà D khai không có, không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[7] Về nợ chung: Bà D khai không có nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[8] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[9] Về án phí: Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: "Nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn không phụ thuộc vào việc Tòa án chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn …". Như vậy, bà D phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng.
Vì các lẽ trên, Căn cứ:
QUYẾT ĐỊNH
- Khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
- Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 227 và Điều 228 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;
- Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội ;
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Ngô Thị Ngọc D về việc "Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn" đối với bị đơn ông Nguyễn Văn T, cụ thể như sau:
- Về quan hệ hôn nhân: Bà Ngô Thị Ngọc D được ly hôn với ông Nguyễn Văn T.
- Về con chung: Có 01 (một) con chung tên Nguyễn Trường D, sinh ngày 19/9/2011. Sau khi ly hôn, bà Ngô Thị Ngọc D là người trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung (phù hợp với nguyện vọng của con). Ghi nhận sự tự nguyện của bà Ngô Thị Ngọc D tạm thời không yêu cầu ông Nguyễn Văn Tcấp dưỡng nuôi con.
Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm, chăm sóc, giáo dục con chưa thành niên, không ai có quyền ngăn cản. Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con hay mức cấp dưỡng nuôi con.
- Về tài sản chung: Bà Ngô Thị Ngọc D khai không có, không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.
- Về nợ chung: Bà Ngô Thị Ngọc D khai không có nên không xem xét.
2. Án phí: Bà Ngô Thị Ngọc D phải chịu số tiền 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 (ba trăm nghìn) đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí số XYZ ngày 23 tháng 6 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B, tỉnh Bến Tre (đã nộp xong).
3. Bà Ngô Thị Ngọc D có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Ông Nguyễn Văn T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử phúc thẩm.
4. Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 59/2021/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 59/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Bến Tre - Bến Tre |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 26/11/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về