TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG PHÚ, TỈNH SÓC TRĂNG
BẢN ÁN 24/2024/HNGĐ-ST NGÀY 25/03/2024 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN
Ngày 25 tháng 3 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 09/2024/TLST-HNGĐ ngày 16/01/2024 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 20/2024/TLST-HNGĐ ngày 20/02/2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Trần Cẩm T, sinh năm 1992; Nơi thường trú: ấp H, xã V, huyện Hh, tỉnh Bạc Liêu; Nơi ở hiện nay: Số 117/9/6 đường Hồ Văn L, phường T, quận B, Thành Phố Hồ Chí Minh. (có mặt)
- Bị đơn Ông Trần Văn TR, sinh năm 1989; Địa chỉ: ấp Đ, xã P, huyện L, tỉnh Sóc Trăng. (vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn là bà Trần Cẩm T trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Vào năm 2010, bà T với ông TR kết hôn với nhau và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện L, tỉnh Sóc Trăng. Trong thời kỳ hôn nhân ông bà chung sống hạnh phúc với nhau, nhưng về sau thì bắt 1 đầu phát sinh nhiều mẫu thuẫn vì tính tình vợ chồng không còn hòa hợp với nhau, bất đồng quan điểm nên vợ chồng thường xuyên cự cải với nhau, vợ chồng ông bà không còn quan tâm chăm sóc lẫn nhau, ông bà hiện đã ly thân. Mâu thuẫn ngày càng trầm trọng. Mục đích hôn nhân không đạt được. Nay bà T yêu cầu Tòa án giải quyết được ly hôn với ông TR.
Về con chung: Trong thời gian chung sống, bà T với ông TR có 01 người con chung là Trần Anh H (nữ, sinh ngày 13/01/2011). Sau khi ly hôn, bà T yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu H đến tuổi trưởng thành và tự nguyện không yêu cầu ông TR cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung và nợ chung: Bà T tự trình trình bày không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Đối với bị đơn là ông Trần Văn TR đã được triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa đến lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do.
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến:
- Về tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án đến khi Hội đồng xét xử vào nghị án thì Thẩm phán xác định về thẩm quyền, quan hệ pháp luật tranh chấp, tư cách đương sự, thời hạn chuẩn bị xét xử đúng quy định của pháp luật và thời hạn gửi hồ sơ cho Viện kiểm sát cũng đảm bảo đúng quy định. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử, Thư ký cũng chấp hành đúng theo quy định của pháp luật.
- Về nội dung: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, qua thẩm tra chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Tại phiên tòa, bị đơn là ông Trần Văn TR vắng mặt lần thứ hai không có lý do. Xét thấy, ông Trần Văn TR đã được triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng, không vì sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan nên căn cứ Khoản 2 Điều 227; Khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với ông Trần Văn TR.
[2]. Bà Trần Cẩm T yêu cầu Tòa án giải quyết được ly hôn và nuôi con với ông Trần Văn TR có nơi cư trú tại xã P, huyện L, tỉnh Sóc Trăng nên quan hệ pháp luật là ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn và Tòa án nhân dân huyện Long Phú thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại Khoản 1 Điều 28; điểm a Khoản 1 Điều 35, điểm a Khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự và Khoản 1 Điều 51 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
[3]. Đối với bị đơn là ông Trần Văn TR sau khi thụ lý vụ án Tòa án đã tiến hành cấp, tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án cho ông TR nhưng ông TR không có ý kiến gì hay gửi văn bản cho Tòa án trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, không tham gia phiên họp và phiên hòa giải nên điều này cho thấy bị đơn đã tự từ chối quyền được trình bày để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình cũng như trình bày ý kiến phản đối về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Do đó, căn cứ Khoản 2, Khoản 4 Điều 91; Điều 93; Điều 95 của Bộ luật Tố tụng Dân sự, Hội đồng xét xử công nhận những tình tiết, sự kiện và tài liệu do nguyên đơn cung cấp và Tòa án thu thập có giá trị dùng làm chứng cứ giải quyết vụ án.
[4]. Về quan hệ hôn nhân: Bà T với ông TR kết hôn với nhau và có đăng ký kết hôn năm 2010 tại Uỷ ban nhân dân xã P, huyện L, tỉnh Sóc Trăng, hôn nhân trên cơ sở tự nguyện, không bị ai ép buộc và tại thời điểm kết hôn bà T với ông TR không vi phạm điều cấm kết hôn. Vì vậy, hôn nhân giữa bà T với ông TR là hợp pháp theo quy định tại Điều 9, Điều 10 và Điều 11 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000.
Trong thời gian đầu chung sống, thì bà T với ông TR rất hạnh phúc, nhưng về sau thì bắt đầu phát sinh nhiều mẫu thuẫn, vợ chồng bất đồng ý kiến, thường xuyên cãi nhau, không còn quan tâm chăm sóc lẫn nhau. Do đó, bà T với ông TR đã vi phạm nghĩa vụ vợ chồng, không sống chung với nhau như vợ chồng, không cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình theo quy định tại Điều 19 của Luật Hôn nhân Gia đình năm 2014.
Xét thấy, thực trạng mâu thuẫn giữa bà T với ông TR đã đến mức trầm trọng, không thể hàn gắn hay hòa giải được, mục đích hôn nhân không đạt được nên căn cứ theo quy định tại Khoản 1 Điều 51; Khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; Khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Dân sự, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà T.
[5]. Về con chung: Trong thời gian chung sống, bà T với ông TR có 01 người con chung là Trần Anh H (nữ, sinh ngày 13/01/2011). Sau khi ly hôn, bà T yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu H đến tuổi trưởng thành và tự nguyện không yêu cầu ông TR cấp dưỡng nuôi con.
Xét thấy, do Trần Anh H đang do bà T là người trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục trong điều kiện tốt nhất, Anh H hiện đang sống ổn định và phát triển về mọi mặt, được đảm bảo việc học hành, Anh H đã quen với điều kiện môi trường sống chung với mẹ. Do đó, nhằm ổn định sự phát triển về mọi mặt tâm sinh lý và đảm bảo cho việc chăm sóc, nuôi dưỡng Anh H được tốt nhất, cũng như nhằm tránh gây sự xáo trộn, ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường và phù hợp với nguyện vọng của Anh H nên căn cứ vào Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật hôn nhân và Gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử tiếp tục giao Trần Anh H cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi thành niên (đủ 18 tuổi) và việc bà T không yêu cầu ông TR cấp dưỡng nuôi con là hoàn toàn tự nguyện nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
Ông TR có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai có quyền cản trở.
[6]. Về tài sản chung: Bà T tự trình bày không có và không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, giải quyết.
[7]. Về nợ chung: Bà T tự trình bày không có nợ chung và không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, giải quyết.
[8]. Về án phí: Bà T phải chịu án phí hôn nhân và gia đình theo quy định pháp luật.
[9]. Xét đề nghị của Kiểm sát viên về tố tụng cũng như quan điểm giải quyết vụ án là có căn cứ, phù hợp với quy định pháp luật nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Khoản 1 Điều 28; điểm a Khoản 1 Điều 35, điểm a Khoản 1 Điều 39; Khoản 4 Điều 147; Điều 271; Điều 273; Điều 280 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.
Căn cứ Khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
Căn cứ vào Khoản 1 Điều 51; Khoản 1 Điều 53; Khoản 1 Điều 56; Điều 57; Điều 81; Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.
Căn cứ vào Khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Trần Cẩm T được ly hôn với ông Trần Văn TR.
2. Về con chung: Giao con chung là Trần Anh H (nữ, sinh ngày 13/01/2011) cho bà Trần Cẩm T trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi thành niên (đủ 18 tuổi) và có khả năng lao động hoặc có tài sản để tự nuôi sống mình. Ông Trần Văn TR không cấp dưỡng nuôi con chung.
Ông Trần Văn TR có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai có quyền cản trở.
3. Về tài sản chung: Bà Trần Cẩm T trình bày không có và không yêu cầu giải quyết nên không đặt ra xem xét, giải quyết.
4. Về nợ chung: Bà Trần Cẩm T trình bày không có và không yêu cầu giải quyết nên không đặt ra xem xét, giải quyết.
5. Về án phí: Bà Trần Cẩm T phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng nhưng được khấu trừ số tiền tạm ứng án phí là 300.000 đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0003314 ngày 15-01- 2024 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện L, tỉnh Sóc Trăng nên bà Trầm Cẩm T đã nộp đủ tiền án phí sơ thẩm.
6. Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được cấp, tống đạt hợp lệ theo quy định pháp luật để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử lại theo trình tự phúc thẩm.
Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án Dân sự năm 2008 (được sửa đổi, bổ sung năm 2014), thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 của Luật Thi hành án Dân sự năm 2008 (được sửa đổi, bổ sung năm 2014). Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án Dân sự năm 2008 (được sửa đổi, bổ sung năm 2014).
Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 24/2024/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 24/2024/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Long Phú - Sóc Trăng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 25/03/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về