Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con chung số 84/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 84/2022/HNGĐ-ST NGÀY 16/06/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON CHUNG

Ngày 16 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 63/2022/TLST-HNGĐ ngày 21 tháng 4 năm 2022 về việc Ly hôn, tranh chấp nuôi con chung.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 53/2022/QĐ-ST ngày 21/4/2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 51a/2022/QĐST-HNGĐ ngày 20/5/2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Ngô Thế B, sinh ngày 12/4/1980 (vắng mặt) Địa chỉ: Thôn Cầu B, xã T, huyện L, tỉnh Bắc Giang.

2. Bị đơn: Chị Bùi Thị H, sinh ngày 28/8/1984 (vắng mặt) Hộ khẩu thường trú: Thôn Cầu B, xã T, huyện L, tỉnh Bắc Giang (Chị H hiện đang lao động tại nước ngoài không rõ địa chỉ).

Địa chỉ cuối cùng của chị H tại Việt Nam: Thôn Cầu B, xã T, huyện L, tỉnh Bắc Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện về việc xin ly hôn và bản tự khai, nguyên đơn anh Ngô Thế B trình bày:

Về hôn nhân: Trước khi kết hôn anh và chị H được tự do tìm hiểu rồi đi đến hôn nhân. Được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục của địa phương. Đăng ký kết hôn ngày 12/6/2014 tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện L, tỉnh Bắc Giang nơi anh đăng ký hộ khẩu thường trú. Sau khi kết hôn chị H về nhà anh làm dâu ngay, vợ chồng chung sống hòa thuận. Tháng 01/2020 phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống. Trong thời gian vợ chồng mâu thuẫn anh, chị nhiều lần nói chuyện với mong muốn tiếp tục chung sống để chăm sóc con nhưng do bất đồng quan điểm quá lớn nên không có kết quả. Khi hai bên gia đình biết chuyện có gọi điện khuyên bảo anh, chị về đoàn tụ nhưng anh, chị đều xác định không còn tình cảm nên không về đoàn tụ được. Trong thời gian vợ chồng mâu thuẫn anh đi làm việc tại Hà Nội, chị H ở nhà tự ý đi lao động tại nước ngoài mà không bàn bạc gì với anh. Kể từ tháng 9/2020 chị H đi lao động, anh và chị H không ai còn quan tâm đến nhau, ai có cuộc sống riêng của người đó. Nay anh xác định tình cảm vợ chồng không còn nên đề nghị Tòa án xử cho anh được ly hôn chị Bùi Thị H.

Về con chung: Anh và chị H có 02 con chung là cháu Ngô Thu T, sinh ngày 20/8/2004 và cháu Ngô Hiểu V, sinh ngày 04/6/2014. Hiện nay các cháu đều đang sinh sống cùng anh. Sau khi ly hôn anh đề nghị được chăm sóc, nuôi dưỡng con chung. Anh không đề nghị chị Bùi Thị H phải cấp dưỡng nuôi con chung quyết.

Về tài sản chung, công nợ: Không có nên anh không yêu cầu Tòa án giải Chị Bùi Thị H là bị đơn không có mặt tại địa phương, không gửi văn bản giấy tờ, tài liệu về cho Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang.

Tại biên bản làm việc ngày 18/5/2022 và 30/5/2022, ông Bùi Văn T là bố đẻ chị Bùi Thị H cung cấp chị H hiện nay đang đi xuất khẩu lao động tại Đài Loan. Về hôn nhân của chị H, anh B ông cho biết: Chị H, anh B được tự do tìm hiểu đi đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Tân Hưng, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang. Sau khi kết hôn, chị H về nhà ông làm dâu ngay và chung sống hòa thuận với gia đình nhà chồng. Tháng 9/2020 chị H đi lao động tại Đài Loan. Sau khi chị H đi lao động một thời gian thì chị H nói vợ chồng có mâu thuẫn. Mâu thuẫn như thế nào thì ông không biết. Ông có khuyên bảo nhưng anh, chị không thống nhất được với nhau. Chị H, anh B có 02 con chung là cháu cháu Ngô Thu T, sinh ngày 20/8/2004 và cháu Ngô Hiểu V, sinh ngày 04/6/2014. Hiện nay các cháu đang sinh sống cùng anh B. Về tài sản chung, công nợ của anh, chị ông không biết. Chị H vẫn thường xuyên liên lạc về gia đình, nhưng chị H không cung cấp cho gia đình, Tòa án địa chỉ cụ thể của chị H tại Đài Loan.

Cháu Ngô Hiểu V và Ngô Thu T có đơn trình bày: Các cháu hiện đang ở cùng bố được bố chăm sóc nuôi dưỡng tốt, vì vậy nếu bố mẹ các cháu ly hôn các cháu xin ở cùng với bố.

Tại phiên tòa sơ thẩm, anh Ngô Thế B vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, chị Bùi Thị H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ 02 nhưng vẫn vắng mặt.

Hội đồng xét xử tóm tắt nội dung vụ án, công bố đơn khởi kiện, bản tự khai của anh Ngô Thế B; Biên bản làm việc với bố đẻ của chị Bùi Thị H và thông qua các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang phát biểu về việc tuân theo pháp luật về tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký Tòa án đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử vào nghị án.

Về việc chấp hành pháp luật của đương sự: Đối với nguyên đơn anh B có đơn xin xét xử vắng mặt thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình được quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự, bị đơn chị H không có địa chỉ cụ thể ở nước ngoài, Tòa án đã niêm yết đầy đủ các văn bản tố tụng đối với chị H. Căn cứ các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử, xét xử vắng mặt chị H là đúng theo quy định của pháp luật.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các Điều 51, 53, 56, 81, 82, 83, khoản 2 Điều 123 và Điều 127 Luật hôn nhân và gia đình; khoản 1 điều 28, khoản 3 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 37, khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 238, Điều 271; Điều 273, khoản 2 Điều 479 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTBVQH14 ngày 30/12/2016 Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Ngô Thế B.

Xử cho anh Ngô Thế B được ly hôn chị Bùi Thị H.

Về con chung: Do chị H hiện nay đang đi xuất khẩu lao động ở nước ngoài nên đề nghị Hội đồng xét xử giao 02 con chung là cháu Ngô Thu T, sinh ngày 20/8/2004 và cháu Ngô Hiểu V, sinh ngày 04/6/2014 cho anh Ngô Thế B trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng.

Về cấp dưỡng nuôi con chung, tài sản, công nợ: Do anh B không yêu cầu nên không đặt ra xem xét giải quyết.

Anh Ngô Thế B phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được công bố tại phiên toà, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát. Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về thẩm quyền, quan hệ pháp luật tranh chấp: Anh Ngô Thế B khởi kiện xin ly hôn chị Bùi Thị H. Theo Công văn trả lời số: 8758/QLXNC-P5 về việc cung cấp thông tin xuất nhập cảnh ngày 04/5/2022 của Cục Quản lý xuất nhập cảnh - Bộ công an cung cấp, chị H xuất cảnh gần đây nhất là ngày 04/12/2020, hiện chưa có thông tin nhập cảnh về nước. Do đó, chị H được xác định là đang ở nước ngoài. Ngoài ra, lời khai của nguyên đơn anh B, ông Bùi Văn T là bố chị H xác định được nơi cư trú cuối cùng của chị H ở Việt Nam trước khi xuất cảnh lần gần nhất là: Thôn Cầu B, xã T, huyện L, tỉnh Bắc Giang.

Chị H, anh B đều có hộ khẩu thường trú tại tỉnh Bắc Giang. Vì vậy, đây là vụ án “ly hôn, tranh chấp về nuôi con chung”. Do vụ án có một bên đương sự ở nước ngoài, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 3 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 37 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2]. Về sự vắng mặt đương sự: Anh Ngô Thế B là nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt anh Ngô Thế B.

Đối với bị đơn chị Bùi Thị H vắng mặt tại phiên tòa: Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang đã tiến hành làm việc với bố đẻ của chị H là ông Bùi Văn T để giao thông báo thụ lý vụ án, đề nghị ông T thông báo cho chị H biết việc Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang đang thụ lý vụ giải quyết vụ án tranh chấp Hôn nhân gia đình giữa anh Ngô Thế B và chị Bùi Thị H. Ông T cho biết chị H vẫn thường xuyên liên lạc về gia đình, nhưng chị H không cung cấp cho gia đình, Tòa án địa chỉ cụ thể của chị H tại Đài Loan. Nhận thấy, đây là trường hợp bị đơn cố tình giấu địa chỉ, từ chối khai báo, từ chối cung cấp những tài liệu cần thiết. Do đó, Tòa án đã tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng cần tống đạt cho bị đơn và xử vắng mặt bị đơn theo Công văn số 253/TANDTC-PC ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân dân Tối cao và khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[3]. Về quan hệ hôn nhân: Anh Ngô Thế B và chị Bùi Thị H kết hôn trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện và có đăng ký kết hôn ngày 12/6/2014 tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện L, tỉnh Bắc Giang. Đây là hôn nhân hợp pháp cần được pháp luật bảo vệ. Quá trình chung sống phát sinh mâu thuẫn, anh B xác định tình cảm vợ chồng không còn nên đề nghị Tòa án xử cho chị được ly hôn chị Bùi Thị H.

Xét yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của anh Ngô Thế B với chị Bùi Thị H. Hội đồng xét xử thấy: Sau khi kết hôn anh B và chị H chung sống với nhau hòa thuận. Chị H đi xuất khẩu lao động tại Đài Loan nhưng không có sự thống nhất với anh B. Kể từ tháng 9/2020 đến nay do bất đồng quan điểm sống nên vợ chồng không còn liên lạc với nhau. Anh B xác định tình cảm vợ chồng không còn nên đã làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh và chị H được ly hôn. Do đó, xác định vợ chồng không còn yêu thương, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy, chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh B, xử cho anh B và chị H được ly hôn là hoàn toàn phù hợp với Điều 51, Điều 53 và Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình.

[4]. Về nuôi con chung: Anh B và chị H có 02 con chung là cháu Ngô Thu T, sinh ngày 20/8/2004 và cháu Ngô Hiểu V, sinh ngày 04/6/2014. Hiện nay hai con chung đang sinh sống cùng anh B và do anh B chăm sóc, nuôi dưỡng. Ly hôn anh B có nguyện vọng nuôi cả hai con chung.

Xét yêu cầu nuôi con chung của anh B: Hội đồng xét xử thấy hiện nay chị H đang lao động tại nước ngoài không thể trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung. Chị H từ khi đi nước ngoài thì cháu V, cháu T vẫn do anh B là người trực tiếp nuôi dưỡng và chăm sóc, các cháu phát triển bình thường về thể chất và tinh thần, được đi học đầy đủ. Ngoài ra, cháu V và cháu T trên 07 tuổi đều trình bày có nguyện vọng được ở cùng bố. Nên chấp nhận yêu cầu của anh B đối với yêu cầu được nuôi dưỡng, chăm sóc 02 con chung sau khi ly hôn là có căn cứ quy định tại Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình. Do vậy, chấp nhận yêu cầu của anh B giao cho anh B là người trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục 02 con chung đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc đến khi có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật là phù hợp với điều kiện thực tế cũng như quyền và lợi ích về mọi mặt của con chung và nguyện vọng của con chung. Sau khi ly hôn chị Bùi Thị H có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở chị H thực hiện quyền này.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Do anh B không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Trường hợp chị Bùi Thị H về Việt Nam có nguyện vọng nuôi con chung hoặc vì quyền lợi chính đáng của con chung, các đương sự có quyền khởi kiện yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn bằng vụ án khác theo quy định tại Điều 84 Luật hôn nhân gia đình.

[5]. Về tài sản, công nợ: Anh B không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[6]. Về án phí: Anh Ngô Thế B phải chịu 300.000 đồng án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ Luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án, nhưng được trừ vào số tiền 300.000 đồng đã nộp tạm ứng án phí tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bắc Giang.

[7]. Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 271, Điều 273 và khoản 2 Điều 479 Bộ luật tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 53, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, khoản 2 Điều 123, Điều 127 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28, khoản 3 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 37, khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 238, Điều 271, Điều 273, khoản 2 Điều 479 Bộ Luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án; xử:

1. Về hôn nhân: Anh Ngô Thế B được ly hôn chị Bùi Thị H.

2. Về nuôi con chung: Giao 02 con chung là cháu Ngô Thu T, sinh ngày 20/8/2004 và cháu Ngô Hiểu V, sinh ngày 04/6/2014 cho anh Ngô Thế B trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục đến khi các cháu đủ 18 tuổi hoặc đến khi có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Chị Bùi Thị H không phải cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn, chị Bùi Thị H không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở chị H thực hiện quyền này.

3. Về án phí: Anh Ngô Thế B phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0000377 ngày 21/4/2022 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bắc Giang. Xác nhận anh Ngô Thế B đã nộp đủ án phí sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo bản án: Anh Ngô Thế B vắng mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ nhận được Bản án hoặc kể từ ngày Bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Chị Bùi Thị H hiện đang ở nước ngoài vắng mặt tại phiên tòa, có thời hạn kháng cáo Bản án là 01 tháng kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

145
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con chung số 84/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:84/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bắc Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về