Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con chung số 61/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN PHÚ, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 61/2022/HNGĐ-ST NGÀY 21/06/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON CHUNG 

Ngày 21 tháng 6 năm 2022, tại Tòa án nhân dân huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ L số 389/2021/TLST-HNGĐ ngày 30 tháng 12 năm 2021, về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 56/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 16 tháng 5 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 39/2022/QĐST-HNGĐ ngày 01/6/2022, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị L, sinh năm 1991 Địa chỉ: Số ** đường Đ khu phố 4, phường Tân Hiệp, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

Bị đơn: Anh Trần Phát H, sinh năm 1993 Địa chỉ: Tổ 1, Ấp 6, xã Tr, huyện Tân Phú, Đồng Nai.

(Chị L có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; anh H vắng mặt không L do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 30/12/2021, lời khai trong quá trình chuẩn bị xét xử nguyên đơn chị Nguyễn Thị L trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Trần Phát H tự nguyện tìm hiểu và tiến đến hôn nhân năm 2018, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Trà Cổ, huyện Tân Phú và được cấp giấy chứng nhận kết hôn theo luật định.

Đời sống hôn nhân của vợ chồng chị đầm ấm, hạnh phúc đến năm 2019 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do anh H không chăm lo làm ăn, vợ chồng bất đồng quan điểm nên thường xảy ra cãi vã, xung đột. chị và anh H đã không còn sống chung với nhau từ cuối tháng 12/2019 cho đến nay. Chị L không còn tình cảm yêu thương anh H nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Trần Phát H.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là Trần Phát Th, sinh ngày 11-4- 2019. Khi ly hôn chị L yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con, không yêu cầu cấp dưỡng.

Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Theo chị L, vợ chồng không có nợ chung, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Trần Phát H mặc dù được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng trong quá trình chuẩn bị xét xử không có ý kiến, đồng thời vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai.

Để chứng minh cho yêu cầu, ý kiến của mình, nguyên đơn đã nộp kèm theo đơn khởi kiện những tài liệu chứng cứ sau: Chứng minh nhân dân của chị L, sổ hộ khẩu gia đình (bản sao); giấy chứng nhận kết hôn (bản chính); giấy khai sinh của con chung (bản sao); lời khai của nguyên đơn tại bản tự khai; Đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Các tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp Tòa án đã tiến hành sao gửi hợp lệ cho bị đơn.

Để giải quyết vụ án, theo yêu cầu của nguyên đơn, Tòa án đã tiến hành thu thập những tài liệu, chứng cứ sau: Biên bản xác minh về tình trạng hôn nhân của các đương sự.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên phát biểu ý kiến như sau:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và nguyên đơn đã tuân thủ đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự kể từ khi thụ L vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án. Bị đơn chưa tuân thủ đúng quy định của pháp luật.

Về nội dung vụ án: Đề nghị chấp nhận cho chị L ly hôn với anh Trần Phát H, về con chung: Đề nghị giao Trần Phát Th, sinh ngày 11-4-2019 cho chị L nuôi dưỡng, tạm thời anh H không phải cấp dưỡng nuôi con do chị L không yêu cầu.

Về tài sản chung, nợ chung: dành quyền khởi kiện về tài sản chung, nợ chung cho các đương sự bằng vụ án khác khi có yêu cầu. Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa:

[1] Về thủ tục tố tụng: Chị Nguyễn Thị L khởi kiện yêu cầu ly hôn với anh Trần Phát H, tranh chấp về nuôi con chung Trần Phát Th, sinh ngày 11-4-2019. Vì vậy, quan hệ pháp luật tranh chấp cần giải quyết trong vụ án này được xác định là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con chung” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Anh Trần Phát H là bị đơn có nơi cư trú tại: Ấp 6, xã Tr, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tân Phú theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Nguyên đơn vắng mặt tại phiên tòa nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; bị đơn anh Trần Phát H, đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt tại phiên tòa. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Hôn nhân giữa chị L, anh H được xác lập trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Trà Cổ, huyện Tân Phú vào ngày 18-9-2018, do đó đây là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật ghi nhận và bảo vệ.

[4] Đời sống hôn nhân của chị L, anh H đầm ấm, hạnh phúc được 15 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh H không chăm lo làm ăn, không làm tròn trách nhiệm của người chồng. Hiện nay chị L, anh H đã không còn sống chung với nhau, vợ chồng không ai quan tâm đến ai, không còn thực hiện quyền và nghĩa vụ chung của vợ chồng việc này phù hợp với biên bản xác minh về mâu thuẫn vợ chồng.

[6] Từ những L do nêu trên, xác định được chị L, anh H trong quá trình sống chung đã không còn thương yêu, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau. Vi phạm nghĩa vụ sống chung của vợ chồng được quy định tại Điều 19 Luật Hôn nhân và Gia đình; làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình thì yêu cầu ly hôn của chị L đối với anh H là có cơ sở chấp nhận.

[6] Về con chung và nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị L, anh H có một con chung Trần Phát Th, sinh ngày 11-4-2019. Khi ly hôn, chị L có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Th, không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con.

[7] Xét thấy từ khi vợ chồng chị L không còn sống chung thì con chung do chị L chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục, do đó yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung của chị L là có cơ sở chấp nhận, tạm thời anh H không phải cấp dưỡng nuôi con do chị L không có yêu cầu.

[8] Về tài sản chung: Chị L khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không xem xét; về nợ chung: Chị L khai không có, nên không xem xét. Đối với anh H nếu có yêu cầu chia tài sản chung, nợ chung với chị L thì có quyền khởi kiện bằng vụ án khác.

[9] Về án phí: Chị L là nguyên đơn trong vụ án ly hôn, do đó chị L phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

[10] Phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa về đường lối giải quyết vụ án là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử, nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228; Điều 235 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Các điều 19, 51, 56, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân Gia đình năm 2014;

- Điểm a khoản 5 điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị L về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con chung” đối với anh Trần Phát H.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị L được ly hôn anh Trần Phát H.

2. Về nuôi con chung: Giao 01 (một) con chung là Trần Phát Th, sinh ngày 11-4-2019 cho chị L trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục; tạm thời anh H không phải cấp dưỡng nuôi con do chị L không yêu cầu.

Anh H có quyền qua lại thăm nom, chăm sóc con chung không ai được gây trở ngại. Vì lợi ích của con chung các bên đương sự được quyền xin thay đổi việc nuôi con và cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không xem xét; về nợ chung, chị L khai không có, nên không xem xét, giải quyết. Khi nào có tranh chấp về chia tài sản chung và nợ chung sẽ giải quyết bằng vụ án khác.

4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị L phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn, khấu trừ vào số tiền chị L đã nộp tạm ứng theo biên lai thu số 0002223 ngày 30/12/2021 tại Chi cục thi hành án Dân sự huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai chuyển thành án phí.

Người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014).

5. Về quyền kháng cáo: Chị L, anh H có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

141
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con chung số 61/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:61/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Phú - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về