Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con chung số 18/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN G, TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 18/2021/HNGĐ-ST NGÀY 17/08/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON CHUNG

Ngày 17 tháng 8 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện G, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình sơ thẩm thụ lý số: 46/2021/TLST- HNGĐ ngày 01-4-2021, về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con chung khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 16/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 25 tháng 6 năm 2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Thái Đình D; Địa chỉ: Đội M, Công ty N, xã K, huyện G, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.

- Bị đơn: Chị Đào Thị G; Địa chỉ: Đội M, Công ty N, xã K, huyện G, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

1. Nguyên đơn Thái Đình D trình bày:

- Về hôn nhân: Anh Thái Đình D và chị Đào Thị G tự nguyện đăng ký kết hôn ngày 21-9-2004 tại Ủy ban nhân dân xã E, huyện Đ, tỉnh Đăk Lăk. Sau đó, chuyển đến sinh sống tại đội M, Công ty N, xã K, huyện G. Trong thời gian chung sống vợ chồng hay nảy sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, không hòa thuận, không quan tâm đến nhau và không còn tiếng nói chung trong các công việc gia đình. Vợ chồng đã không còn chung sống khoảng 04 năm nay, gia đình cũng đã hòa giải nhiều lần nhưng không còn khả năng đoàn tụ. Nay anh D thấy mâu thuẫn đã thật sự trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh D được ly hôn với chị G.

- Về con chung: Anh Thái Đình D và chị Đào Thị G có 02 con chung là Thái Đình M, sinh ngày 11-10-2005 và Thái Thị N, sinh ngày 28-02-2008. Ly hôn, anh D yêu cầu giao con chung cháu M cho anh D và giao cháu N cho chị G trực tiếp chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng đến khi con đủ 18 tuổi, không yêu cầu chị G cấp dưỡng nuôi con chung.

Về chia tài sản chung: Anh Thái Đình D không yêu cầu Tòa án giải quyết.

2. Tòa án đã thực hiện việc tống đạt các văn bản tố tụng để triệu tập bị đơn là chị Đào Thị G đến làm việc liên quan đến vụ án nhưng chị G cố tình trốn tránh, không có mặt theo Giấy triệu tập. Do vậy, hồ sơ không có lời khai của chị G.

3. Đương sự đã giao nộp và Tòa án thu thập các tài liệu, chứng cứ: 01 giấy chứng nhận đăng ký kết hôn; 02 Bản sao giấy khai sinh; 01 sao sổ hộ khẩu; 02 bản sao giấy chứng minh nhân dân; 01 Bản tự khai ngày 01-4-2021; 01 Biên bản xác minh ngày 21-5-2021; 02 Biên bản ghi ý kiến của con chưa thành niên.

4. Phát biểu ý kiến, đại diện Viện kiểm sát khẳng định trong quá trình giải quyết vụ án những người tiến hành tố tụng đã tuân thủ đầy đủ các thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật; Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử cũng đã thực hiện đầy đủ các thủ tục tố tụng kể từ khi bắt đầu phiên tòa cho đến trước khi nghị án; Đối với nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn đã được triệu tập đến phiên tòa hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt nên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt; Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện về việc ly hôn và nuôi con chung của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: Xét nội dung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn phù hợp với quy định của pháp luật, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án được quy định tại các Điều 28, Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự nên được xem xét giải quyết. Trong quá trình giải quyết vụ án những người tiến hành tố tụng đã tuân thủ đầy đủ các thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật; Đối với nguyên đơn có đơn xin giải quyết vắng mặt, bị đơn cố tình trốn tránh, không tham gia phiên tòa nên Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt.

[2] Về hôn nhân: Anh Thái Đình D và chị Đào Thị G đăng ký kết hôn ngày 21- 9-2004 tại Ủy ban nhân dân xã E, huyện Đ, tỉnh Đăk Lăk. Anh D và chị G kết hôn trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, không trái pháp luật và có đăng ký kết hôn nên đây là hôn nhân hợp pháp. Trong thời gian chung sống với nhau vợ chồng hay nảy sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, vợ chồng không hòa thuận, không quan tâm đến nhau và không còn tiếng nói chung trong các công việc gia đình. Vợ chồng không còn chung sống khoảng 04 năm nay, gia đình cũng đã hòa giải nhiều lần nhưng không thành. Chị G đã nhận các văn bản tố tụng nhưng không có thiện chí hòa giải. Như vậy, Hội đồng xét xử thấy rằng giữa anh D và chị G tình cảm vợ chồng không còn, không còn khả năng đoàn tụ nên chấp nhận yêu cầu ly hôn của anh D.

[3] Về con chung: Anh Thái Đình D và chị Đào Thị G có 02 con chung là Thái Đình M, sinh ngày 11-10-2005 và Thái Thị N, sinh ngày 28-02-2008. Hội đồng xét xử thấy rằng, anh D yêu cầu giao con chung là Thái Đình M cho anh Thái Đình D và giao cháu Thái Thị N cho chị Đào Thị G trực tiếp chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng đến khi con đủ 18 tuổi là phù hợp với nguyện vọng của các con và chị G cũng không có ý kiến gì phản đối nên chấp nhận. Về việc cấp dưỡng nuôi con chung, đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về chia tài sản chung: Anh Thái Đình D và chị Đào Thị G đều không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Anh Thái Đình D là người khởi kiện yêu cầu ly hôn nên phải chịu 300.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng các Điều 8, Điều 9, Điều 51, Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình.

- Áp dụng các Điều 144, Điều 147, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Áp dụng Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân:

Cho ly hôn giữa anh Thái Đình D và chị Đào Thị G.

2. Về con chung:

Giao con chung của anh Thái Đình D và chị Đào Thị G là cháu Thái Đình M, sinh ngày 11-10-2005 cho anh Thái Đình D và giao cháu Thái Thị N, sinh ngày 28-02- 2008 cho chị Đào Thị G trực tiếp chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng đến khi đủ 18 tuổi.

Anh Thái Đình D và chị Đào Thị G đều không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con chung.

3. Về án phí: Buộc chị Anh Thái Đình D phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), được khấu trừ vào số tiền đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng phí, lệ phí Tòa án số 0011897 ngày 31 tháng 3 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện G, tỉnh Gia Lai. Anh Thái Đình D đã nộp đủ tiền án phí.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6; Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, các đương sự có quyền kháng cáo Bản án để yêu cầu xét xử phúc thẩm. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

166
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con chung số 18/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:18/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chư Păh - Gia Lai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về