Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con chung số 12/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN SƠN TRÀ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 12/2022/HNGĐ-ST NGÀY 27/04/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON CHUNG

Ngày 27 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 06/2022/TLST-HNGĐ ngày 10 tháng 01 năm 2022 về việc "Ly hôn, tranh chấp nuôi con chung" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 06/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 04 tháng 4 năm 2022, Quyết định hoãn phiên tòa số: 23/2022/QĐST-HNGĐ ngày 20 tháng 4 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Nguyễn Thị H, sinh năm 1979.

Nơi cư trú: Số 57 đường T, tổ 37, phường T, quận S, thành phố Đà Nẵng. (Có mặt)

- Bị đơn: Ông Đặng Công M, sinh năm 1979.

Nơi cư trú: Số 57 đường T, tổ 37, phường T, quận S, thành phố Đà Nẵng. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

-Tại đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Nguyễn Thị H trình bày:

Về hôn nhân: bà Nguyễn Thị H và ông Đặng Công M kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường B, quận H, thành phố Đà Nẵng theo Giấy chứng nhận kết hôn số 98, Quyển số 01/2010 ngày 23/12/2010.

Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại nhà của vợ chồng tại số 57 đường T, phường T, quận S, thành phố Đà Nẵng. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2013 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do ông M không có trách nhiệm với gia đình, thường xuyên nhậu nhẹt về chửi mắng, hăm doạ bạo lực với vợ, hai vợ chồng cãi vã nhau. Ông bà đã sống ly thân từ năm 2020 cho đến nay, không còn quan tâm lẫn nhau. Bà Nguyễn Thị H xác định giữa vợ chồng ông bà không còn tình cảm yêu thương nhau nên yêu cầu Toà án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Đặng Công M.

Về con chung: bà Nguyễn Thị H xác định bà và ông Đặng Công M có 02 con chung là Đặng Nguyễn Gia B, sinh ngày 18/3/2011 và Đặng Nguyễn Phương A, sinh ngày 27/10/2012. Hiện nay con chung đang sống với bà Nguyễn Thị H. Khi Tòa án giải quyết ly hôn bà xin được nuôi cả hai con chung, không yêu cầu ông Đặng Công M cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: bà Nguyễn Thị H xác định bà và ông Đặng Công M không có tài sản chung.

Về nợ chung: bà Nguyễn Thị H xác định bà và ông Đặng Công M không có nợ chung.

- Bị đơn ông Đặng Công M đã được Tòa án tống đạt các văn bản tố tụng và triệu tập hợp lệ theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự, tuy nhiên ông vẫn vắng mặt, không có ý kiến.

-Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng:

Việc tuân theo pháp luật tố tụng:

Thẩm phán được phân công thụ lý giải quyết vụ án đã tuân theo đúng pháp luật trong thời gian chuẩn bị xét xử.

Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về việc xét xử sơ thẩm vụ án.

Thư ký đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình được quy định tại khoản 5 Điều 51 Bộ luật tố tụng dân sự.

Từ khi Tòa án thụ lý vụ án đến thời điểm mở phiên tòa, người tham gia tố tụng là nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng, bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt đã không chấp hành các quy định của pháp luật.

Ý kiến về việc giải quyết vụ án:

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các Điều 51, 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị H đối với ông Đặng Công M: Về hôn nhân: Cho bà Nguyễn Thị H được ly hôn với ông Đặng Công M. Về con chung: Giao con chung Đặng Nguyễn Gia B, sinh ngày 18/3/2011 và Đặng Nguyễn Phương A, sinh ngày 27/10/2012 cho bà Nguyễn Thị H trực tiếp nuôi dưỡng con chung, ông Đặng Công M không cấp dưỡng nuôi con; Về tài sản chung và nợ chung: bà Nguyễn Thị H xác định không có, đối với ông Đặng Công M vắng mặt không có ý kiến về tài sản và nợ chung nên không đề cập giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa. Sau khi đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm. Sau khi thảo luận và nghị án, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng:

[1.1]. Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con chung” là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự.

[1.2]. Về thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Bị đơn ông Đặng Công M cư trú tại phường T, quận S, thành phố Đà Nẵng nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[1.3]. Bị đơn ông Đặng Công M đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt lần thứ hai tại phiên tòa không có lý do nên Hội đồng xét xử vắng bị đơn theo quy định tại khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]. Về nội dung vụ án:

[2.1]. Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa bà Nguyễn Thị H và ông Đặng Công M xác lập trên cơ sở tự nguyện, đủ điều kiện kết hôn, có đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước thẩm quyền là hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Bà Nguyễn Thị H xác định trong quá trình chung sống giữa vợ chồng ông bà có phát sinh nhiều mâu thuẫn do ông M không có trách nhiệm với gia đình, thường xuyên uống rượu bia về chửi mắng, hăm doạ bạo lực với bà H, vợ chồng cãi vã nhau, ông bà đã sống ly thân thời gian dài. Đối với ông Đặng Công M vắng mặt không có ý kiến.

Hội đồng xét xử thấy rằng giữa các bên đương sự có mâu thuẫn trầm trọng dẫn đến việc sống ly thân là có thật, việc bị đơn ông Đặng Công M vắng mặt, không cung cấp lời khai, không tham gia hoà giải và xét xử cho thấy ông không còn muốn hàn gắn tình cảm vợ chồng, đời sống chung giữa hai người đã không còn tồn tại, mục đích hôn nhân không đạt được, yêu cầu ly hôn của bà Nguyễn Thị H phù hợp với Điều 51, 56 Luật hôn nhân và gia đình nên Hội đồng xét xử chấp nhận cho bà Nguyễn Thị H được ly hôn với ông Đặng Công M.

[2.2]. Về con chung: bà Nguyễn Thị H xác định vợ chồng bà có 02 con chung chưa thành niên, hiện nay đang sống với bà H. Khi ly hôn bà yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung.

Hội đồng xét xử xét thấy: thực tế hiện nay con chung đang sống cùng với bà Nguyễn Thị H, đại diện chính quyền địa phương xác nhận bà H đang nuôi con, bà có đủ điều kiện để chăm sóc, nuôi dưỡng con chung, các con đã trên 7 tuổi và đều có nguyện vọng muốn được ở cùng với mẹ, do đó căn cứ vào Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà Nguyễn Thị H, giao 02 con chung cho bà trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi các con chung thành niên. [2.3]. Về cấp dưỡng nuôi con: Bà Nguyễn Thị H không yêu cầu và ông Đặng Công M cũng không có ý kiến về việc cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[2.4] Về tài sản chung và nợ chung: bà Nguyễn Thị H xác định không có tài sản chung và nợ chung, đối với ông Đặng Công M vắng mặt không có ý kiến về vấn đề này do đó Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[3]. Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án thì bà Nguyễn Thị H phải chịu 300.000 đồng án phí tranh chấp hôn nhân và gia đình.

[4]. Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào Điều 271, khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự, nguyên đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

[5]. Đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên cần chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân gia đình; Điểm a khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227, Điều 266, Điều 271, khoản 1 Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con chung” của bà Nguyễn Thị H đối với ông Đặng Công M.

1. Về hôn nhân: bà Nguyễn Thị H được ly hôn với ông Đặng Công M (Giấy chứng nhận kết hôn số 98, quyển số 01/2010 do Ủy ban nhân dân phường B, quận H, thành phố Đà Nẵng cấp ngày 23/12/2010 không còn giá trị pháp lý).

2. Về con chung: Giao con chung là Đặng Nguyễn Gia B, sinh ngày 18/3/2011 và Đặng Nguyễn Phương A, sinh ngày 27/10/2012 cho bà Nguyễn Thị H trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi các con chung lần lượt thành niên. Ông Đặng Công M không cấp dưỡng nuôi con chung.

Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền và nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung theo quy định của pháp luật. Khi cần thiết vì lợi ích của con chung, các bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con, cấp dưỡng nuôi con.

3. Án phí dân sự sơ thẩm: bà Nguyễn Thị H phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng), được khấu trừ vào 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm bà Nguyễn Thị H đã nộp theo biên lai thu số: 0003125 ngày 06 tháng 01 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng.

4. Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

160
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con chung số 12/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:12/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Sơn Trà - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về