Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con chung khi ly hôn số 06/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH GIA, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 06/2022/HNGĐ-ST NGÀY 23/05/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON CHUNG KHI LY HÔN

Trong ngày 23 tháng 5 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 15/2022/TLST- HNGĐ ngày 01 tháng 3 năm 2022 về việc ly hôn, tranh chấp nuôi con chung khi ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 08/2022/QĐXX-ST ngày 19 tháng 4 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 05/2022/HNGĐ-QĐ ngày 05 tháng 5 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Bùi Thị T, sinh năm 1994.

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Khối phố Tr, thị trấn B, huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn.

Chỗ ở hiện nay: Thôn V, xã V, huyện BS, tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.

2. Bị đơn: Anh Liễu Thanh D, sinh năm 1988.

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Khối phố Tr, thị trấn B, huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn.

Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và các lời khai có trong hồ sơ vụ án cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn chị Bùi Thị T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Bùi Thị T kết hôn với anh Liễu Thanh D vào năm 2017; trước khi kết hôn được tự do tìm hiểu, tự nguyện kết hôn và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã V, huyện BS, tỉnh Lạng Sơn. Sau khi kết hôn, hai vợ chồng sinh sống tại khối phố Tr, thị trấn B, huyện Bình Gia, cuộc sống gia đình hạnh phúc. Đến năm 2019 phát sinh mâu thuẫn, cãi vã, không hòa hợp với nhau. Lý do anh Liễu Thanh D không có việc làm, cuộc sống bế tắc, có bạo lực gia đình. Chị Bùi Thị T đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở thôn V, xã V, huyện BS và sống ly thân từ tháng 01 năm 2022 đến nay. Hiện nay, nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị Bùi Thị T yêu cầu được ly hôn với anh Liễu Thanh D.

Về con chung: Có hai người con chung tên là Liễu Thanh Ph, sinh ngày 29/9/2017 và Liễu Minh L, sinh ngày 02/6/2019. Khi ly hôn, chị Bùi Thị T yêu cầu được trực tiếp, chăm sóc, giáo dục nuôi cháu Liễu Minh L, anh Liễu Thanh D có trách nhiệm nuôi dưỡng, giáo dục cháu Liễu Thanh Ph đến tuổi trưởng thành (đủ 18 tuổi); hai bên không cấp dưỡng nuôi con chung và có quyền thăm nom con chung không ai được cản trở.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có.

Về phía bị đơn, anh Liễu Thanh D không đến Tòa án tham gia tố tụng. Tòa án đã tiến hành xác minh với đại diện khối phố Tr, thị trấn B, huyện Bình Gia và Công an thị trấn B, huyện Bình Gia đều khẳng định anh Liễu Thanh D có hộ khẩu thường trú tại khối phố Tr, thị trấn B, huyện B và có mặt tại địa phương. Tòa án đã tiến hành giao các giấy triệu tập, thông báo đến tận tay cho anh Liễu Thanh D và có biên bản giao nhận. Ngoài ra, Tòa án cũng đã thông tin qua điện thoại, xuống tận nơi cư trú của bị đơn anh Liễu Thanh D để làm việc nhưng anh Liễu Thanh D đều trốn tránh, không hợp tác với Tòa án. Vì vậy, Tòa án đã lập biên bản sự việc và niêm yết biên bản theo đúng quy định pháp luật.

Qua xác minh, đại diện gia đình anh Liễu Thanh D cho biết chị Bùi Thị T và anh Liễu Thanh D có mâu thuẫn, cãi nhau; chị Bùi Thị Trang đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ cách đây vài tháng, không nhớ rõ thời gian cụ thể và không có ý kiến gì về việc chị Bùi Thị T yêu cầu ly hôn với anh Liễu Thanh D. Đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tòa án đã tiến hành xác minh với đại diện thôn V, xã V cho biết chị Bùi Thị T cùng con thứ hai đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ sinh sống từ tháng 01 năm 2022 cho đến nay, lý do chị Bùi Thị T phản ánh là anh Liễu Thanh D có hành vi đe dọa, dùng bạo lực gia đình với chị Bùi Thị T. Còn hoàn cảnh gia đình, điều kiện kinh tế bố mẹ chị Bùi Thị T thu nhập ổn định, bố mẹ vẫn trong tuổi lao động. Tại phiên tòa, chị Bùi Thị T trình bày nghề nghiệp làm thẩm mỹ có thu nhập và cháu Liễu Minh L còn nhỏ nên để mẹ chăm sóc là phù hợp. Vì vậy, việc hỗ trợ chăm sóc, điều kiện học hành cho cháu nhỏ hoàn toàn đáp ứng đầy đủ.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã ra Thông báo mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải. Tuy nhiên, bị đơn anh Liễu Thanh D không đến Tòa án tham gia trong quá trình tố tụng và nguyên đơn chị Bùi Thị T có đơn đề nghị Tòa án không tiến hành hòa giải. Vì vậy, Tòa án không tiến hành hòa giải được.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Gia phát biểu ý kiến:

Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký đã thực hiện đúng, đầy đủ các bước về trình tự, thủ tục tố tụng từ khi nhận đơn khởi kiện cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án theo quy định tại Điều 48, 51 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án nguyên đơn chị Bùi Thị T đã chấp hành, thực hiện đúng các quy định tại các Điều 70, 71 của Bộ luật tố tụng dân sự như thực hiện quyền khởi kiện; nộp các tài liệu, chứng cứ chứng minh yêu cầu của mình; có mặt tham gia phiên tòa sơ thẩm. Bị đơn anh Liễu Thanh D vắng mặt tại Tòa án, mặc dù đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần. Do vậy, anh Liễu Thanh D không chấp hành đầy đủ quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều 70, 72 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về việc giải quyết vụ án: Trên cơ sở các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; qua tranh tụng tại phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Bùi Thị T. Về con chung: Giao cháu Liễu Minh L, sinh ngày 02/6/2019 cho chị Bùi Thị T trực tiếp, chăm sóc, giáo dục nuôi con chung đến tuổi trưởng thành (đủ 18 tuổi); giao cháu Liễu Thanh Ph, sinh ngày 29/9/2017 cho anh Liễu Thanh D trực tiếp, chăm sóc, giáo dục nuôi con chung đến tuổi trưởng thành (đủ 18 tuổi). Hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung và được thăm nom con chung không ai được cản trở. Về tài sản chung, nợ chung: Không có nên không xem xét giải quyết. Về án phí: Buộc nguyên đơn chị Bùi Thị T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: Nguyên đơn chị Bùi Thị T khởi kiện yêu cầu giải quyết ly hôn, tranh chấp nuôi con chung khi ly hôn. Vì vậy quan hệ pháp luật là “Ly hôn, tranh chấp nuôi con chung khi ly hôn” theo khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn anh Liễu Thanh D có nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở tại khối phố Tr, thị trấn B, huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn. Do đó, căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì thẩm quyền giải quyết thuộc Tòa án nhân dân huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành thu thập tài liệu chứng cứ, thông báo mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải theo quy định pháp luật.

[2] Về tố tụng: Bị đơn anh Liễu Thanh D vắng mặt tại phiên tòa xét xử lần thứ hai không có lý do; mặc dù đã được Tòa án tống đạt các văn bản tố tụng hợp lệ. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh Liễu Thanh D là có căn cứ đúng quy định pháp luật.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Việc kết hôn giữa chị Bùi Thị T và anh Liễu Thanh D là hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã V, huyện BS, tỉnh Lạng Sơn nên quan hệ hôn nhân giữa chị Bùi Thị T và anh Liễu Thanh D là hợp pháp. Nguyên đơn chị Bùi Thị T trình bày quá trình chung sống hay phát sinh mâu thuẫn, anh Liễu Thanh D không có việc làm ổn định, cuộc sống bế tắc, thi thoảng có bạo lực gia đình, dẫn đến vợ chồng không còn có tiếng nói chung, không còn tình cảm và đã sống ly thân từ tháng 01 năm 2022 đến nay; phù hợp với tài liệu chứng cứ do đương sự nộp và kết quả xác minh của Tòa án. Anh Liễu Thanh D mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng không có mặt tại Tòa án để trình bày ý kiến của mình về việc chị Bùi Thị T xin ly hôn với anh, thể hiện không có thiện chí mong muốn hòa giải đoàn tụ. Như vậy anh Liễu Thanh D đã tự từ bỏ quyền tham gia tố tụng của mình khi giải quyết vụ án. Chị Bùi Thị T đã bỏ về nhà mẹ đẻ ở thôn V, xã V, huyện BS từ đầu năm 2022. Như vậy, tình trạng hôn nhân giữa chị Bùi Thị T và anh Liễu Thanh D đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Chị Bùi Thị T yêu cầu ly hôn với anh Liễu Thanh D là có căn cứ, phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình nên Hội đồng xét xử xét thấy cần chấp nhận.

[4] Về con chung: Có hai người con chung là Liễu Thanh Ph, sinh ngày 29/9/2017 và Liễu Minh L, sinh ngày 02/6/2019. Hiện nay, cháu Liễu Thanh Ph đang sinh sống với anh Liễu Thanh D. Hội đồng xét xử xét thấy qua xác minh hiện nay anh Liễu Thanh D cũng có công việc và thu nhập. Ngoài ra, cháu Liễu Minh L dưới ba tuổi nên yêu cầu về nuôi con chung của chị Bùi Thị T là có căn cứ, phù hợp với quy định tại Điều 58, 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình nên cần được chấp nhận. Vì vậy, giao cháu Liễu Thanh Ph cho anh Liễu Thanh D, cháu Liễu Minh L cho chị Bùi Thị T chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục các cháu đến tuổi trưởng thành (đủ 18 tuổi). Về cấp dưỡng nuôi con chung, do bị đơn vắng mặt không có ý kiên, nguyên đơn không yêu cầu cấp dưỡng nên có căn cứ chấp nhận hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung và có quyền đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5] Về tài sản chung và nợ chung của vợ chồng: Chị Bùi Thị T trình bày là không có; trong quá trình giải quyết vụ án anh Liễu Thanh D vắng mặt không có ý kiến gì. Vì vậy, Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc chị Bùi Thị T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng). Xác nhận chị Bùi Thị T đã nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2021/0005534 ngày 01 tháng 3 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn.

[7] Xét thấy ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[8] Các đương sự có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm theo quy định tại khoản 1 Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228; Điều 271; khoản 1 Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 57; Điều 58; Điều 81; Điều 82; Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình;

Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Bùi Thị T được ly hôn với anh Liễu Thanh D.

2. Về con chung: Giao cháu Liễu Thanh Ph, sinh ngày 29/9/2017 cho anh Liễu Thanh D trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục các cháu đến khi trưởng thành (đủ 18 tuổi). Giao cháu Liễu Minh L, sinh ngày 02/6/2019 cho chị Bùi Thị T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục các cháu đến khi trưởng thành (đủ 18 tuổi). Hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung và có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Không xem xét giải quyết.

4. Về án phí: Buộc chị Bùi Thị T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng). Xác nhận chị Bùi Thị T đã nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2021/0005534 ngày 01 tháng 3 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn.

5. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn chị Bùi Thị T có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn anh Liễu Thanh D vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

123
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con chung khi ly hôn số 06/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:06/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Gia - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về