Bản án về ly hôn số 94/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VŨNG LIÊM, TỈNH VĨNH LONG

BẢN ÁN 94/2022/HNGĐ-ST NGÀY 01/07/2022 VỀ LY HÔN

Ngày 01 tháng 7 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Vũng Liêm xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 210/2022/TLST-HNGĐ ngày 21 tháng 4 năm 2022, về tranh chấp “Ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số:

147/2022/QĐXX-ST ngày 14 tháng 6 năm 2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: chị Nguyễn Thị Hồng N – sinh năm: 1993 (xin vắng mặt).

2. Bị đơn: anh Nguyễn Hoàng T – sinh năm: 1989 (vắng mặt).

Cùng địa chỉ: ấp H, xã H, huyện V, tỉnh Vĩnh Long.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện ngày 12/4/2022 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Hồng N trình bày:

- Về hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Hoàng T chung sống với nhau vào năm 2013, hôn nhân tự nguyện, do quen biết, được cha mẹ hai bên thừa nhận, có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Hiếu Nghĩa vào ngày 10/7/2013.

Sau ngày cưới, chị và anh T sống riêng tư tại tỉnh Tiền Giang để đi làm thuê. Vợ chồng sống hạnh phúc đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do anh T không lo làm ăn, tham gia tệ nạn cờ bạc dẫn đến nợ nần nên vợ chồng thường cự cãi nhau, không chung sống được nữa. Chị có khuyên nhưng anh T vẫn không thay đổi để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Chị và anh T đã ly thân từ đầu năm 2018 cho đến nay.

Nay nhận thấy tình cảm không thể hàn gắn, đời sống chung không thể kéo dài nên chị N yêu cầu ly hôn với anh Nguyễn Hoàng T.

- Về con chung: Có 01 con chung tên Nguyễn Hoàng H- sinh ngày 22/9/2013, hiện đang sống với chị N. Khi ly hôn, chị N yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu H và không yêu cầu anh Tcấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung và nợ chung phải thu, phải trả của vợ chồng: Chị N không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Đối với bị đơn anh Nguyễn Hoàng T:

Anh Nguyễn Hoàng T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vắng mặt không lý do nên Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các chứng cứ được thể hiện tại hồ sơ được thẩm tra tại phiên Toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên Toà. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Chị N có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long giải quyết việc hôn nhân giữa chị và anh Nguyễn Hoàng T. Theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long.

Xét thấy, anh Nguyễn Hoàng T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không lý do. Ngày 26 tháng 5 năm 2022, chị N có đơn xin vắng mặt nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt chị N, anh T theo quy định tại khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung vụ án:

Về quan hệ hôn nhân: Chị N và anh T tự nguyện chung sống với nhau do quen biết, được cha mẹ hai bên thừa nhận, có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Hiếu Nghĩa vào ngày 10/7/2013 nên đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp.

Xét thấy, chị N trình bày vợ chồng sống hạnh phúc đến năm 2014 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do anh T không lo làm ăn, tham gia tệ nạn cờ bạc dẫn đến nợ nần nên vợ chồng thường cự cãi nhau, không chung sống được nữa. Chị có khuyên nhưng anh T vẫn không thay đổi để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Chị và anh T đã ly thân từ đầu năm 2018 cho đến nay. Theo quy định tại Điều 19 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 thì vợ chồng phải có nghĩa vụ chung sống với nhau, yêu thương, quan tâm chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng chia sẻ và thực hiện các công việc của gia đình. Thực tế, giữa chị Ng và anh Tn không còn quan tâm chăm sóc nhau, không thực hiện nghĩa vụ của vợ chồng. Qua đó cho thấy, hôn nhân giữa chị N và anh T lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị N yêu cầu ly hôn là có căn cứ chấp nhận.

[3] Về con chung: Có 01 con chung tên Nguyễn Hoàng H- sinh ngày 22/9/2013. Khi ly hôn, chị N yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu H và không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.

Hội đồng xét xử xét thấy, cháu Nguyễn Hoàng H đang sống cùng chị N cuộc sống của cháu ổn định, sức khoẻ bình thường, điều kiện sống cuûa chị T, anh L đảm bảo thuận tiện cho việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con. Mặc khác, cháu H có nguyện vọng sống với chị Ng. Do đó, khi ly hôn giao cháu Nguyễn Hoàng H cho chị N trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng là phù hợp với nguyện vọng của cháu H và quy định tại Điều 81, Điều 82 Luật hôn nhân và gia đình.

Chị N không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi cháu Nguyễn Hoàng H nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[4] Về tài sản chung và nợ chung phải thu, phải trả của vợ chồng: chị N không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị N phải nộp án phí theo luật định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Điều 9, 51, 53; 56, 57, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị Hồng N.

Về hôn nhân: Cho chị Nguyễn Thị Hồng N được ly hôn với anh Nguyễn Hoàng T.

Về con chung: Giao cháu Nguyễn Hoàng H- sinh ngày 22/9/2013 cho chị Nguyễn Thị Hồng N trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Anh Nguyễn Hoàng T không phải cấp dưỡng nuôi con nhưng có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Về tài sản chung và nợ chung phải thu, phải trả: Chị Nguyễn Thị Hồng N không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Hồng N phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số N00008246 ngày 21/4/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vũng Liêm. Chị Nguyễn Thị Hồng Nhung đã nộp đủ không phải nộp thêm.

Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

172
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 94/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:94/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vũng Liêm - Vĩnh Long
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:01/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về