Bản án về ly hôn số 88/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN XUÂN LỘC, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 88/2021/HNGĐ-ST NGÀY 30/06/2021 VỀ LY HÔN

Ngày 30 tháng 06 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Xuân Lộc xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 02/2021/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 01 năm 2021 về việc “ Ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 92/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 24 tháng 05 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 75/2021/QĐST-HNGĐ ngày 14 tháng 06 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Phan Hà Kim Kh, sinh năm 1996, vắng mặt. Địa chỉ: Tổ 12, ấp T, xã X, huyện X, tỉnh Đồng Nai.

- Bị đơn: Anh Hồ Trung H, sinh năm 1995, vắng mặt.

Địa chỉ: Ấp T, xã X, huyện X, tỉnh Đồng Nai.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 15/07/2020 và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Phan Hà Kim Kh trình bày: chị và anh Hồ Trung H tự nguyện đăng ký kết hôn năm 2018 tại UBND xã X, huyện X, tỉnh Đồng Nai. Đây là kết hôn lần đầu của anh chị. Nguyên nhân mâu thuẫn do anh H không quan tâm đến gia đình, không chăm lo làm ăn, kinh tế vợ chồng gặp khó khăn, dẫn đến hai vợ chồng thường xuyên cãi vã, xúc phạm lẫn nhau. Từ tháng 06 năm 2020 chị Kh cùng con dọn về ngoại sống riêng, hai vợ chồng ly thân từ đó cho đến nay. Nay chị Phan Hà Kim Kh yêu cầu được ly hôn với anh H.

Anh chị có 01 con chung là cháu Hồ Bảo K, sinh ngày 13/04/2019. Sau khi ly hôn chị Kh yêu cầu nuôi con chung và không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: chị không yêu cầu Tòa án giải quyết Về nợ chung: chị khai không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn anh Hồ Trung H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng không đến Tòa án làm việc. Tuy nhiên, tại biên bản xác minh của Trưởng ấp T, xã T cho biết: hiện nay vợ chồng chị Kh, anh H không còn chung sống với nhau từ năm 2018.

Ý kiến của kiểm sát viên tham gia phiên tòa:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và nguyên đơn đã chấp hành đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án, còn bị đơn không chấp hành đúng quy định pháp luật.

- Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận cho chị Phan Hà Kim Kh được ly hôn với anh Hồ Trung H. Giao cháu Hồ Bảo K, sinh ngày 13/04/2019 cho chị Kh nuôi dưỡng, tạm miễn cấp dưỡng nuôi con cho anh H. Về tài sản chung: chị K không yêu cầu giải quyết, nợ chung chị Kh khai không có nên đề nghị không giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]Về thủ tục tố tụng: Anh Hồ Trung H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do, do đó Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt anh Hồ Trung H theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự. Chị Phan Hà Kim Kh có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt chị Phan Hà Kim Kh theo quy định tại khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự [2] Về quan hệ hôn nhân: chị Phan Hà Kim Kh và anh Hồ Trung H có đăng ký kết hôn năm 2018 tại Ủy ban nhân dân xã X, huyện X, tỉnh Đồng Nai. Hôn nhân của anh chị là hợp pháp theo quy định của pháp luật.

[3] Xét yêu cầu của đương sự nhận thấy: chị Phan Hà Kim Kh yêu cầu ly hôn với anh Hồ Trung H, anh Hồ Trung H không đến Tòa án làm việc nên không có lời khai. Tuy nhiên, anh H nhận được các văn bản tố tụng của Tòa án nhưng vẫn không đến Tòa án làm việc. Tại biên bản xác minh ngày 25/02/2021 của UBND xã X cũng như xác nhận của trưởng ấp T, xã Xuân Th cho biết: anh Hồ Trung H đang cư trú và sinh sống, làm việc tại ấp T, xã X, huyện X, tỉnh Đồng Nai và hiện vợ chồng chị Kh, anh H đã ly thân không sống chung với nhau từ năm 2018.Qua đó, cho thấy, bản thân chị Kh và anh H không còn quan tâm, chăm sóc cho nhau nữa, anh chị bỏ mặc lẫn nhau. Như vậy chứng tỏ, anh chị đã vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ vợ chồng làm cho cuộc hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, do đó chấp nhận cho chị Phan Hà Kim Kh được ly hôn với anh Hồ Trung H là phù hợp Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình.

[4] Về con chung: Chị Phan Hà Kim Kh yêu cầu nuôi cháu Hồ Bảo K, không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy, hiện cháu K còn nhỏ tuổi và đang sống cùng mẹ nên giao cháu Hồ Bảo K cho chị Kh nuôi dưỡng là phù hợp Điều 81 Luật hôn nhân gia đình năm 2014. Chị Kh không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con nên tạm miễn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cho anh H.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: không giải quyết [6] Nhận định của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa phù hợp với nhận định trên nên chấp nhận.

[7] Về án phí: chị Phan Hà Kim Kh phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu ly hôn.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39 và điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào các Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 và Điều 84 và Điều 131 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận cho chị Phan Hà Kim Kh được ly hôn với anh Hồ Trung H.

2. Về con chung: Giao cháu Hồ Bảo K, sinh ngày 13/04/2019 cho chị Phan Hà Kim Kh trực tiếp nuôi dưỡng đến đủ 18 tuổi và có khả năng lao động.

Tạm miễn cấp dưỡng nuôi con cho anh Hồ Trung H.

Anh Hồ Trung H được quyền thăm nom con chung. Khi cần thiết, anh Hồ Trung H, chị Phan Hà Kim Kh được quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con cũng như việc cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung và nợ chung: không giải quyết 4. Về án phí: Chị Phan Hà Kim Kh phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm. Số tiền 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) tạm ứng án phí chị Phan Hà Kim Kh đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Xuân Lộc theo biên lai thu số 0004599 ngày 29/12/2020 được tính trừ vào án phí.

Chị Phan Hà Kim Kh được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, anh Hồ Trung H được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

216
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 88/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:88/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về