Bản án về ly hôn số 71/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HIỆP HÒA, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 71/2021/HNGĐ-ST NGÀY 27/09/2021 VỀ LY HÔN

Ngày 27 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hiệp Hòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 132/2020/TLST- HNGĐ ngày 23 tháng 6 năm 2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 68/2021/QĐXX- HNGĐ ngày 01/9/2021, giữa các đương sự:

1.1. Nguyên đơn: Anh Phạm Văn M, sinh năm 1987 Địa chỉ: Thôn H, xã HL, Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang (có mặt)

1.2. Bị đơn: Chị Phạm Thị T, sinh năm 1984 Địa chỉ: Thôn H, xã HL, Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn xin ly hôn ghi ngày 09/12/2020, Bản tự khai ngày 25/6/2021, nguyên đơn là anh Phạm Văn M trình bày: anh và chị Phạm Thị T kết hôn với nhau năm 2012 trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND xã Hương Lâm, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang. Sau ngày cưới anh chị đoàn tụ ngay, vợ chồng chung sống hòa thuận đến năm 2015 thì xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm, không có tiếng nói chung trong việc làm ăn kinh tế, chị T không nghe anh khuyên nhủ dẫn đến thua lỗ, nợ nần. Vợ chồng ngày càng xảy ra xô sát, bất hòa nhiều hơn, chị T còn có nhiều lời lẽ xúc phạm đến anh và gia đình anh, mặc dù đã được đoàn thể và gia đình đôi bên hòa giải nhưng không có kết quả. Vì vậy, anh xác định tình cảm vợ chồng không còn, anh yêu cầu được ly hôn chị T.

Về con chung: Anh M trình bày, vợ chồng anh chị có hai con chung là Phạm Xuân Phước, sinh ngày 25/10/2013 và Phạm Hoài Anh, sinh ngày 10/9/2019. Khi ly hôn anh đề nghị mỗi người nuôi 1 con chung, anh nuôi con lớn còn chị T nuôi con nhỏ, cấp dưỡng nuôi con không đặt ra.

Về tài sản: Anh M không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

Về phía chị Phạm Thị T là bị đơn trong vụ án, mặc dù đã được Tòa án Thông báo về việ thụ lý vụ án và giao các văn bản tố tụng nhưng chị T không đến Tòa án làm việc, không gửi cho Tòa án văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Tại Biên bản làm việc ngày 12/7/2021, chị T có quan điểm cho rằng chị không đồng ý ly hôn nên không trình bày các vấn đề liên quan đến vụ án.

Tại phiên tòa, nguyên đơn là anh Phạm Văn M giữ nguyên yêu cầu ly hôn và yêu cầu về việc nuôi con chung. Bị đơn là chị Phạm Thị T vắng mặt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hiêp Hoà tham gia phiên toà nhận xét quá trình tiến hành tố tụng, xét xử vụ án, Toà án và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng, đầy đủ các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên có ý thức chấp hành pháp lụât. Về việc giải quyết vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 28, 147, 227, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 56, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 18, 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, xử chấp nhận yêu cầu của anh Phạm Văn M, xử cho anh Phạm Văn M được ly hôn chị Phạm Thị T.

- Về con chung: Giao cho anh Phạm Văn M nuôi con chung Phạm Xuân Phước; giao cho chị Phạm Thị T nuôi con chung Phạm Hoài Anh. Cấp dưỡng nuôi con không đặt ra do các đương sự không yêu cầu.

- Án phí: Anh Phạm Văn M phải nộp án phí ly hôn theo quy định của pháp luật, được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Mặc dù bị đơn là chị Phạm Thị T vắng mặt nhưng đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nên cần áp dụng khoản 2 điều 227 - Bộ luật tố tụng dân sự để xét xử vắng mặt chị T.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về quan hệ hôn nhân: Anh Phạm Văn M và chị Phạm Thị T kết hôn với nhau tháng 12/2013 trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền nên là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống, mặc dù anh chị có thời gian chung sống hòa thuận và đã có con chung nhưng đến năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng bắt nguồn từ bất đồng quan điểm, không có tiếng nói chung trong việc làm ăn kinh tế dẫn đến xô sát, bất hòa trong cuộc sống, sinh hoạt vợ chồng. Mặc dù đã được đoàn thể, gia đình đôi bên hòa giải nhưng không có kết quả, anh M xác định tình cảm vợ chồng đã hết nên yêu cầu ly hôn. Về phía chị T có quan điểm không đồng ý ly hôn nhưng lại không đến Tòa án làn việc và thạm gia phiên hòa giải, cũng không không có văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu của anh M, chứng tỏ chị T cũng không thiết tha với nguyện vọng đoàn tụ. Vì vậy, xét mâu thuẫn vợ chồng giữa anh chị đã trầm trọng, đời sống cung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, cần áp dụng quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình để chấp nhận yêu cầu của anh M, xử cho anh M được ly hôn chị T.

[2]. Về con chung: vợ chồng anh chị có hai con chung là Phạm Xuân Phước, sinh ngày 25/10/2013 và Phạm Hoài Anh, sinh ngày 10/9/2019. Khi ly hôn, anh M đề nghị mỗi người nuôi 1 con chung, anh nuôi con lớn còn chị T nuôi con nhỏ. Chị T không đưa ra ý kiến gì về việc nuôi con, vì vậy, cần chấp nhận yêu cầu của Anh M, giao anh M trực tiếp nuôi con chung Phạm Xuân Phước, sinh ngày 25/10/2013; giao cho chị T trực tiếp nuôi con Phạm Hoài Anh, sinh ngày 10/9/2019 là phù hợp pháp luật và điều kiện thực tế của đôi bên. Về cấp dưỡng nuôi con chung, các đương sự không yêu cầu, mặt khác anh chị mỗi người nuôi 1 con nên không đặt ra việc cấp dưỡng nuôi con cho nhau cho đến khi có yêu cầu.

[3]. Về tài sản: Anh chị không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét. Sau này nếu phát sinh tranh chấp sẽ được xem xét giải quyết bằng vụ án khác.

[4]. Về án phí: Anh M không thuộc trường hợp được miễn nộp án phí nên anh M phải nộp án phí ly hôn theo quy định của pháp luật. Số tiền anh M đã nộp tạm ứng án phí được khấu trừ vào số tiền án phí anh M phải nộp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 56, 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình; các Điều 28, 147, 227, 271, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 18, 27 Nghị quyết 326/2016 UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016, xử:

1/ Về quan hệ hôn nhân: Xử cho anh Phạm Văn M được ly hôn chị Phạm Thị T.

2/ Về con chung: Giao cho anh Phạm Văn M trực tiếp nuôi con chung Phạm Xuân Phước, sinh ngày 25/10/2013; giao cho chị T trực tiếp nuôi con Phạm Hoài Anh, sinh ngày 10/9/2019. Cấp dưỡng nuôi con chung không đặt ra cho đến khi các đương sự có yêu cầu.

3/ Án phí: Anh Phạm Văn M phải nộp 300.000đ án phí ly hôn, được khấu trừ vào số tiền anh M đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai số 0000796 ngày 23/6/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Hiệp Hòa (xác nhận anh M đã nộp đủ tiền án phí).

Báo cho đương sự có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

183
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 71/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:71/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hiệp Hòa - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về