TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VŨNG TÀU, TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU
BẢN ÁN 68/2021/HNGĐ-ST NGÀY 10/06/2021 VỀ LY HÔN
Ngày 10 tháng 6 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 239/2021/TLST - HNGĐ ngày 22 tháng 3 năm 2021 về việc “Ly hôn”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 61/2021/QĐXX-HNGĐ ngày 06 tháng 5 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 63/2021/QĐST - HNGĐ ngày 24-5-2021 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Minh T, sinh năm: 1982. Địa chỉ: Ấp Đ, xã T, huyện C, tỉnh Long An; chỗ ở: Công ty N, khu công nghiệp T, xã T, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh (có đơn xin xét xử mặt).
Bị đơn: Anh Nguyễn Quang P, sinh năm: 1981. Địa chỉ: Thôn B, xã L, thành phố Vũ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ly hôn lập ngày 01-3-2021 và các lời khai tại Tòa án chị Nguyễn Thị Minh T trình bày: Chị T với anh P xây dựng gia đình với nhau vào năm 2002, có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã L, thành phố V. Hôn nhân hoàn toàn tự nguyện, không ai mai mối, ép buộc. Quá trình chung sống hạnh phúc nên hạ sinh được hai người con. Từ năm 2015 đến nay anh chị thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do tính tình, quan điểm sống trái ngược nhau, không tôn trọng và tin tưởng nhau, cả hai đã cố gắng khắc phục nhưng vẫn không có kết quả nên anh chị đã ly thân từ đó đến nay. Thời gian ly thân đã lâu nên tình cảm anh chị ngày càng xa cách. Chị T xác định không còn tình cảm gì với anh P nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị T được ly hôn với ông Nguyễn Quang P.
Về con chung: Có 02 (hai) cháu là Nguyễn Quang D, sinh năm 2001 và Nguyễn Duy K, sinh ngày 19-4-2007, cháu D đã trưởng thành nên không yêu cầu Tòa án giải quyết, từ khi ly thân đến nay cháu K sống cùng anh P nên chị đồng ý giao cháu K cho anh P trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành, chị T cấp dưỡng nuôi cháu K mỗi tháng 2.000.000đ (hai triệu đồng) đến khi cháu K trưởng thành (18 tuổi).
Tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Sau khi thụ lý vụ án Tòa án đã tiến hành tống đạt Thông báo về việc thụ lý vụ án cho anh Nguyễn Quang P nhưng không tống đạt được cho anh P vì anh P không ở nhà nên Tòa án đã tiến hành niêm yết Thông báo về việc thụ lý vụ án; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Quyết định hoãn phiên tòa cho anh P nhưng vẫn không thấy anh P đến Tòa làm việc. Ngày 19-4-2021 Tòa án đã tiến hành xác minh tại xã L, thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, kết quả xác minh cho biết anh Phục có đăng ký hộ khẩu và đang sinh sống tại địa chỉ trên. Vợ chồng anh P chị T mâu thuẫn nên anh chị đã sống ly thân 03 năm nay. Như vậy Tòa án đã tiến hành đầy đủ các biện pháp thu thập chứng cứ nhưng anh P vẫn cố tình vắng mặt, không hợp tác để giải quyết vụ việc. Vì vậy căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu của nguyên đơn cung cấp Tòa án tiến hành giải quyết vụ việc theo quy định của pháp luật.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký là đúng quy định của pháp luật, việc chấp hành pháp luật của đương sự kể từ khi thụ lý vụ án đến nay không có gì sai phạm. Về nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu do nguyên đơn cung cấp, đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc ly hôn của chị T, con chung có 02 (hai) cháu, cháu D đã trưởng thành, cháu K anh P trực tiếp nuôi dưỡng, chị T cấp dưỡng nuôi cháu K mỗi tháng 2.000.000đ (hai triệu đồng) đến khi cháu K trưởng thành.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Anh Nguyễn Quang P có đăng ký hộ khẩu thường trú tại xã L, thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, nay chị Nguyễn Thị Minh T có đơn khởi kiện về việc ly hôn, theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu. Tòa án đã tiến hành niêm yết công khai các văn bản tố tụng theo quy định tại Điều 179, điểm b khoản 2 Điều 227 và Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh P.
[2] Về hôn nhân: Chị T và anh P xây dựng gia đình với nhau vào năm 2002, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã L, thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu nên đây là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống hạnh phúc nên hạ sinh được hai người con. Từ năm 2015 đến nay không hạnh phúc, nguyên nhân là do tính tình, quan điểm sống trái ngược nhau, không tôn trọng và tin tưởng nhau, không có sự quan tâm, yêu thương, chăm sóc trong gia đình, cả hai đã cố gắng khắc phục nhưng không thể nào hàn gắn được nên anh chị đã ly thân từ đó đến nay. Thời gian ly thân đã lâu nên tình cảm ngày càng xa cách, anh chị cũng không tạo cơ hội cho nhau để hàn gắn gia đình. Chị T xác định không còn tình cảm gì với anh P. Do đó mâu thuẫn anh chị trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên chị T xin ly hôn với anh P. Căn cứ vào khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Nguyễn Thị Minh T, chị Nguyễn Thị Minh T được ly hôn với anh Nguyễn Quang P.
[3] Về con chung: Có 02 (hai) cháu là Nguyễn Quang H, sinh năm 2001 và Nguyễn Duy K, sinh ngày 19-4-2007, cháu H đã trưởng thành, cháu K có nguyện vọng được sống chung cùng với anh P. Căn cứ vào nguyện vọng của con chung và sự đồng ý của chị T, giao cháu Nguyễn Duy K cho anh Nguyễn Quang P trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành, chị Nguyễn Thị Minh T cấp dưỡng nuôi cháu K mỗi tháng 2.000.000đ (hai triệu đồng) đến khi cháu K trưởng thành (18 tuổi).
[4] Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Chị Nguyễn Thị Minh T phải nộp án phí Hôn nhân và Gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, Điều 58 Luật Hôn nhân và Gia đình; khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 179, điểm b khoản 2 Điều 227 và Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Minh T. Chị Nguyễn Thị Minh T được ly hôn với anh Nguyễn Quang P.
Về con chung: Căn cứ vào nguyện vọng của con chung và sự đồng ý của chị T, giao cháu Nguyễn Duy K cho anh Nguyễn Quang P trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành, chị Nguyễn Thị Minh T cấp dưỡng nuôi cháu K mỗi tháng 2.000.000đ (hai triệu đồng), việc cấp dưỡng bắt đầu thực hiện kể từ khi án có hiệu lực đến khi cháu K trưởng thành (18 tuổi). Chị Nguyễn Thị Minh T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Trên cơ sở lợi ích của con, trường hợp yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.
Kể từ ngày bên được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bên phải thi hành án không hoàn trả số tiền nêu trên cho bên được thi hành án thì hàng tháng bên phải thi hành án còn phải trả thêm cho bên được thi hành án số tiền lãi theo lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự tương ứng với thời gian chưa thi hành án.
Về án phí: Chị Nguyễn Thị Minh T nộp 300.000 đ (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn và 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí cấp dưỡng nuôi con. Tổng cộng 600.000đ (sáu trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0009674 ngày 19/3/2021 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu thành tiền án phí. Chị Nguyễn Thị Minh T còn phải nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí.
Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, nguyên đơn được quyền kháng cáo bản án để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử phúc thẩm. Bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo kể từ ngày bản án được giao hoặc niêm yết.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự
Bản án về ly hôn số 68/2021/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 68/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Vũng Tàu - Bà Rịa - Vũng Tàu |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 10/06/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về