Bản án về ly hôn số 53/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẢO LỘC, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 53/2022/HNGĐ-ST NGÀY 10/08/2022 VỀ LY HÔN

Ngày 10 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 187/2022/TLST-HNGĐ ngày 28 tháng 4 năm 2022 về tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 53/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 04 tháng 7 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 26/2022/QĐST-HNGĐ ngày 29 tháng 7 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Ngọc T, sinh năm 1996. Nơi cư trú: phường N, thành phố N1, tỉnh Hậu Giang. Vắng mặt.

2. Bị đơn: Ông Lê H, sinh năm 1987. Nơi cư trú: phường L, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và trong quá trình xét xử nguyên đơn bà Nguyễn Thị Ngọc T trình bày: Bà và ông Lê H tự nguyện đăng ký kết hôn và được UBND phường N, thị xã N1, tỉnh Hậu Giang cấp giấy chứng nhận kết hôn số 45 ngày 30/6/2014. Sau khi kết hôn cuộc sống vợ chồng hạnh phúc nhưng đến cuối năm 2018 thì luôn phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân chủ yếu là mâu thuẫn kinh tế gia đình, bất đồng nhiều vấn đề trong cuộc sống, cả hai hay cải vả thậm chí đánh nhau, ông H thiếu trách nhiệm với gia đình. Hiện vợ chồng đã sống ly thân từ cuối năm 2018 đến nay, mạnh ai nấy sống không còn quan tâm lẫn nhau, bà xác định tình cảm vợ chồng không còn nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với ông H.

Về con chung: Vợ chồng có một con chung tên Lê H1, sinh ngày 13/10/2012 hiện đang ở với bà. Ly hôn bà yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung cho tới khi con chung thành niên, không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà xác định không có.

Ông H đã được Tòa án tống đạt Thông báo thụ lý vụ án và triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn cố tình vắng mặt. Căn cứ khoản 1 Điều 207, khoản 2 Điều 208 Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ mà không tiến hành hòa giải.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bảo Lộc phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng theo quy định pháp luật. Đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 cho bà T ly hôn với ông H vì mục đích hôn nhân không đạt; giao con chung cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng cho tới khi thành niên.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào ý kiến của đại diện Viện kiểm sát; Tòa án nhận định:

[1]. Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa, nguyên đơn bà Nguyễn Thị Ngọc T có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt, bị đơn ông Lê H đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt và không thuộc trường hợp bất khả kháng, nên căn cứ Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự để xét xử vụ án theo thủ tục chung.

[2]. Về quan hệ tranh chấp: Bà T khởi kiện yêu cầu Tòa án cho ly hôn với ông H hiện cư trú tại phường L, thành phố B. Do vậy, xác định đây là tranh chấp ly hôn theo khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự. Vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Bảo Lộc theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3]. Quan hệ hôn nhân giữa bà T và ông H là hợp pháp do hôn nhân tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Trong quá trình chung sống, vợ chồng đã phát sinh mâu thuẫn, bà T xác định không còn tình cảm với ông H, cuộc sống vợ chồng không thể hòa hợp được nên yêu cầu được ly hôn với ông H. Qua xác minh thực tế tại chính quyền địa phương và hàng xóm của bà T, ông H thì cuộc sống vợ chồng đã phát sinh mâu thuẫn, từ cuối năm 2018 đến nay cả hai đã sống ly thân, mỗi người sống một nơi, không có sự quan tâm, chăm sóc lẫn nhau, mạnh ai nấy sống. Như vậy, thực trạng quan hệ hôn nhân của bà T và ông H đã thể hiện mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng và kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt. Nên áp dụng Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà T.

[4]. Bà T và ông H có một con chung tên Lê H1, sinh ngày 13/10/2012. Ly hôn bà T yêu cầu trực tiếp được nuôi dưỡng con chung cho tới khi thành niên, không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy cháu Huy hiện đang ở với bà T, được bà T trực tiếp chăm sóc và cháu cũng có nguyện vọng được ở với mẹ nên để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con, tránh sự xáo trộn trong cuộc sống của con chung, chấp nhận giao con chung cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng cho tới khi thành niên. Bà T không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét.

[5]. Về tài sản chung và nợ chung bà T trình bày không có có nên Tòa án không đề cập.

[6]. Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có cơ sở và phù hợp quy định của pháp luật nên chấp nhận.

[7]. Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm không có giá ngạch theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Áp dụng Điều 56, 58 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Cho bà Nguyễn Thị Ngọc T ly hôn ông Lê H.

2. Về nuôi con chung: Giao con chung tên Lê H1, sinh ngày 13/10/2012 cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi thành niên. Bà T không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con.

Việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn và thay đổi nuôi con được thực hiện theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình.

3. Về án phí: Bà T phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai số 0005014 ngày 28 tháng 4 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng; bà T đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

15
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 53/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:53/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bảo Lộc - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 10/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về