Bản án về ly hôn số 46/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THẠNH PHÚ - TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 46/2022/HNGĐ-ST NGÀY 19/09/2022 VỀ LY HÔN

Ngày 19 tháng 9 năm 2022 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thạnh Phú xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 108/2022/TLST- HNGĐ ngày 11 tháng 7 năm 2022 về việc tranh chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 46/2022/QĐXXST - HNGĐ ngày 23 tháng 8 năm 2022; Quyết định hoãn phiên toà số: 54/2022/QĐST-DS, ngày 07 tháng 9 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Hồng V, sinh năm: 1994; Nơi cư trú: Số nhà 10/2, ấp G B, xã G, huyện P, tỉnh Bến Tre (có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt).

- Bị đơn: Anh Phạm Văn M, sinh năm: 1985; Nơi cư trú: Số nhà 103/1, ấp G B, xã G, huyện P, tỉnh Bến Tre (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Hồng V có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt nhưng theo nội dung đơn khởi kiện, bản tự khai và trong quá trình tố tụng tại tòa án – chị Nguyễn Thị Hồng V trình bày:

Chị và anh Phạm Văn M sống chung vợ chồng vào năm 2011, đến năm 2012 mới đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã G, huyện P, tỉnh Bến Tre, là hôn nhân tự nguyện. Sống chung có sinh được một con chung tên Phạm Chính Q, sinh ngày 20/01/2012, con chung đang sống với chị. Tài sản chung, nợ chung không có.

Trong thời gian sống chung giữa chị và anh M phát sinh nhiều mâu thuẫn, anh M thường xuyên đi nhậu về chửi bới rồi đánh đập chị, người thân trong gia đình anh M đều biết nhưng không có ai can ngăn, chị và anh M đã sống ly thân đến nay khoảng 03 tháng, tình cảm vợ chồng vẫn không hàn gắn được, cuộc sống hôn nhân không còn hạnh phúc.

Nên nay, về hôn nhân chị yêu cầu được ly hôn với anh Phạm Văn M, không yêu cầu giải quyết nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi ly hôn. Về con chung tên Phạm Chính Q, sinh ngày 20/01/2012, chị yêu cầu được nuôi con chung, không yêu cầu anh M cấp dưỡng nuôi con vì hiện nay chị có làm thêm công việc kết hạt cườm, gia đình bên chị cũng có nuôi vuông, nên chị có đủ khả năng để nuôi con. Về tài sản chung và nợ chung không có, nên chị không yêu cầu giải quyết.

Trong quá trình giải quyết vụ án, anh Phạm Văn M luôn vắng mặt trong các lần hòa giải, công khai chứng cứ, xét xử nên không có lời trình bày.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thạnh Phú tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm:

Về tố tụng: Trong quá trình thụ lý giải quyết vụ án Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án đã thực hiện đầy đủ quy định Bộ luật tố tụng dân sự; Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa đã thực hiện đầy đủ theo đúng thủ tục tố tụng. Người tham gia tố tụng là nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định pháp luật và có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt, riêng bị đơn không tham gia các phiên họp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải là chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định tại Điều 70, 72 Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Hồng V về việc yêu cầu ly hôn với anh Phạm Văn M. Về nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng không đặt vấn đề giải quyết do không có yêu cầu. Về con chung: Chị V được trực tiếp nuôi con chung tên Phạm Chính Q, sinh ngày 20/01/2012 do cháu Q có nguyện vọng sống với chị V. Ghi nhận việc chị V không yêu cầu anh M cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung và nợ chung chị V trình bày không có nên không đặt vấn đề xem xét, giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên toà, đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thạnh Phú tham gia phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Chị Nguyễn Thị Hồng V có đơn khởi kiện xin ly hôn với anh Phạm Văn M. Bị đơn Phạm Văn M có đăng ký hộ khẩu thường trú tại ấp G B, xã G, huyện P, tỉnh Bến Tre nên căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự thì xác định đây là vụ án tranh chấp về hôn nhân gia đình và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre. Chị V có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt, còn anh M đã được Tòa triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham dự phiên tòa xét xử sơ thẩm nhưng anh M vắng mặt không lý do, nên Tòa án xét xử vắng mặt tất cả những người tham gia tố tụng trong vụ án là đúng theo quy định tại Điều 227, khoản 1 Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Hồng V và anh Phạm Văn M kết hôn vào năm 2012, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã G, được cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 01/3/2012 nên được xem là hôn nhân hợp pháp. Trong thời gian sống chung, giữa chị V và anh M thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân theo chị V là do anh M thường xuyên đi nhậu về chửi bới rồi đánh đập chị, chị và anh M đã sống ly thân đến nay khoảng 03 tháng, nên nay chị V có yêu cầu ly hôn với anh M, còn anh M đều vắng mặt mỗi lần tòa triệu tập, không có lời trình bày. Tuy nhiên, qua xác minh đối với ông Phạm Văn Đ là cha ruột của anh M thì ông Đ cho biết là thời gian gần đây giữa chị V và anh M có xảy ra mâu thuẫn, không còn sống chung với nhau nữa. Nay chị V có yêu cầu ly hôn với anh M thì Tòa cứ xem xét, giải quyết theo đúng quy định pháp luật. Bên cạnh đó, qua xác minh bà Nguyễn Thị N là Trưởng ấp G B, xã G thì bà N cho biết giữa chị V và anh M có đăng ký kết hôn hợp pháp, giữa chị V và anh M có một con chung tên Phạm Chính Q, sinh ngày 20/01/2012. Sau khi kết hôn, chị V và anh M chung sống hạnh phúc, nhưng sau đó xảy ra mâu thuẫn. Lẽ đó, có căn cứ cho thấy trong thời gian sống chung giữa chị V và anh M đã xảy ra mâu thuẫn, cuộc sống vợ chồng không còn hạnh phúc. Chị V và anh M đã sống ly thân đến nay khoảng 03 tháng nhưng tình cảm vợ chồng vẫn không hàn gắn lại được, điều này chứng tỏ cuộc sống hôn nhân giữa chị V và anh M đã xảy ra mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung vợ chồng không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Nên nay chị V có yêu cầu được ly hôn với anh M là có căn cứ phù hợp quy định pháp luật nên được Hội đồng xét xử chấp nhận. Khi ly hôn, chị V không yêu cầu về nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ chồng nên Hội đồng xét xử không đặt vấn đề xem xét, giải quyết.

[3] Về con chung: Chị V yêu cầu được nuôi con chung tên Phạm Chính Q, sinh ngày 20/01/2012, cháu Q cũng có nguyện vọng được sống chung với chị V. Nên việc chị V được trực tiếp nuôi con chung là phù hợp, nên được Hội đồng xét xử chấp nhận. Ghi nhận việc anh M không phải cấp dưỡng nuôi con chung do chị V không có yêu cầu.

[4] Về tài sản chung: Chị V trình bày không có, không yêu cầu giải quyết, nên Hội đồng xét xử không đặt vấn đề xem xét, giải quyết.

[5] Về nợ chung: Chị V trình bày không có, không yêu cầu giải quyết, nên Hội đồng xét xử không đặt vấn đề xem xét, giải quyết.

[6] Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Hồng V phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định tại Điều 26, khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, 177, 227, 238 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Áp dụng các Điều 51, 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84, 115 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

- Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Nguyễn Thị Hồng V đối với anh Phạm Văn M. Chị Nguyễn Thị Hồng V được ly hôn với anh Phạm Văn M.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi ly hôn không đặt vấn đề xem xét giải quyết do không có yêu cầu.

- Về con chung: Chị Nguyễn Thị Hồng V được trực tiếp nuôi con chung tên Phạm Chính Q, sinh ngày 20/01/2012 (theo nguyện vọng của cháu Chính Q). Ghi nhận việc anh M không phải cấp dưỡng nuôi con chung do chị V không có yêu cầu.

Sau khi ly hôn cha, mẹ người không trực tiếp nuôi con có quyền đến thăm, chăm sóc, giáo dục con chưa thành niên không ai được quyền ngăn cản.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trược tiếp nuôi con hay mức cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Chị V trình bày không có, không yêu cầu giải quyết, nên Hội đồng xét xử không đặt vấn đề xem xét, giải quyết.

- Về nợ chung: Chị V trình bày không có, không yêu cầu giải quyết, nên Hội đồng xét xử không đặt vấn đề xem xét, giải quyết.

- Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Hồng V phải chịu: 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo biên lai thu số 0007366 ngày 05/7/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre. Như vậy án phí chị V đã nộp xong.

Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa được quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử phúc thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án, hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 luật thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

130
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 46/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:46/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thạnh Phú - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về