Bản án về ly hôn số 459/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ QUY NHƠN, TỈNH BÌNH ĐỊNH

BẢN ÁN 459/2022/HNGĐ-ST NGÀY 15/04/2022 VỀ LY HÔN

Ngày 15 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Quy Nhơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 237/2021/TLST-HNGĐ ngày 21 tháng 12 năm 2021 về ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 65/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 09 tháng 3 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 71/2022/QĐST-HNGĐ ngày 29 tháng 3 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Hồ Thị Tường V, sinh năm 1970; Địa chỉ cư trú tại: Căn hộ B, Chung cư S, đường số A, Phường LĐ, thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt, bà V có đơn xin xét xử vắng mặt).

- Bị đơn: Ông Đỗ Chí H, sinh năm 1960; Địa chỉ cư trú tại: Số A đường TL, phường NVC, TP. Quy Nhơn, T. Bình Định (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 26-11-2021 và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn bà Hồ Thị Tường V trình bày: Bà và ông Đỗ Chí H kết hôn vào ngày 16/02/1996, trên cơ sở tự nguyện, có tìm hiểu và có đăng ký kết hôn tại UBND phường Lê Hồng Phong, thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định theo giấy chứng nhận kết hôn số 31. Trong suốt thời gian chung sống, vợ chồng bà sống hạnh phúc bình thường, đến năm 2014 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm về cách giáo dục con, trong sinh hoạt, lối sống và không có tiếng nói chung trong cuộc sống hằng ngày nên vợ chồng thường xuyên cãi nhau, mâu thuẫn càng ngày càng gay gắt và trầm trọng. Cả hai đã cố gắng tìm biện pháp để khắc phục mâu thuẫn nhưng không được nên từ năm 2014 vợ chồng bà sống ly thân cho đến nay, phần ai nấy sống, không còn quan tâm đến nhau. Bà V xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn đã trầm trọng không có khả năng hàn gắn nên bà yêu cầu Tòa giải quyết cho bà được ly hôn với ông H để bà ổn định cuộc sống.

Về con chung: Quá trình chung sống vợ chồng bà có 02 con chung tên Đỗ Ngọc Thanh N, sinh ngày 01-9-1999 và Đỗ Thành N, sinh ngày 25-4-2008. Hiện sức khỏe các con của bà vẫn bình thường, cháu N đã trưởng thành nên bà không yêu cầu Tòa giải quyết, cháu N chưa đủ tuổi thành niên và đang sống cùng với bà nên sau ly hôn bà yêu cầu được tiếp tục trực tiếp nuôi cháu N và không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Bà không yêu cầu Tòa giải quyết.

Tại bản khai ngày 29-12-2021 và quá trình tố tụng, bị đơn ông Đỗ Chí H khai: Thống nhất về thời gian, điều kiện kết hôn như bà Hồ Thị Tường V đã khai. Về mâu thuẫn, ông cũng thừa nhận mâu thuẫn vợ chồng ông đã trầm trọng, không có khả năng hàn gắn, tình cảm vợ chồng không còn nên bà V yêu cầu ly hôn với ông, ông đồng ý ly hôn (thể hiện tại bút lục 32, 44). Tại bản khai ngày 06/01/2022 ông H lại khai ông không đồng ý ly hôn vì ông không muốn gia đình mất hạnh phúc. Tại phiên tòa, ông H khai khi nào bà V giao trả 50.000.000đ và sổ hộ khẩu cho ông thì ông mới có ý kiến đối với yêu cầu của bà V.

Về con chung: Trong quá trình tố tụng, ông H khai thống nhất như lời khai của bà V về quan hệ con chung. Ông và bà V có 02 con chung tên Đỗ Ngọc Thanh N, sinh ngày 01-9-1999 và Đỗ Thành N, sinh ngày 25-4-2008. Hiện sức khỏe các con của ông vẫn bình thường, cháu N đã trưởng thành nên ông không yêu cầu Tòa giải quyết, còn cháu N chưa đủ tuổi thành niên và đang sống cùng với bà V, nếu Tòa cho ly hôn cháu N có nguyện vọng ở với ai tùy theo ý kiến của cháu. Tại phiên tòa, ông không có ý kiến gì về yêu cầu được trực tiếp nuôi con chung của bà V.

Về tài sản chung, nợ chung: Ông H không yêu cầu Tòa giải quyết.

Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Tp. Quy Nhơn phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật về tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và quan điểm giải quyết vụ án như sau:

Thẩm phán đã thực hiện đúng theo qui định của Bộ luật tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thơi điê m xet xư sơ thâm . Tại phiên tòa sơ thẩm , Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa tuân thủ đúng theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng dân sự: Nguyên đơn đã thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn cơ bản thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về quan điểm giải quyết vụ án : Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 56, Điều 81, Điều 82 của Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu của bà Hồ Thị Tường V xin ly hôn ông Đỗ Chí H và giao cháu N cho bà V được trực tiếp nuôi dưỡng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ được thẩm tra tại phiên tòa Hội đồng xét xử xét thấy:

[1] Về tố tụng: Bà Hồ Thị Tường V, là nguyên đơn trong vụ án vắng mặt tại phiên tòa, bà V có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt đề ngày 04-4-2022. Ông Đỗ Chí H đề nghị hoãn phiên tòa với lý do bà V chưa giao trả 50.000.000đ và sổ hộ khẩu cho ông. Xét thấy đề nghị của ông H là không có căn cứ, không phù hợp với quy định của pháp luật quy định tại khoản 1 Điều 233 của Bộ luật tố tụng dân sự nên Hội đồng xét xử không chấp nhận. Căn cứ theo qui định tại điểm a khoản 2 Điều 227 và Điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bà Hồ Thị Tường V.

[2] Về nội dung: Xét yêu cầu ly hôn của bà V, căn cứ giấy chứng nhận kết hôn số 31 ngày 16/02/1996 do UBND phường Lê Hồng Phong, thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định cấp đủ cơ sở xác định quan hệ hôn nhân giữa bà Hồ Thị Tường V và ông Đỗ Chí H là hôn nhân hợp pháp. Bà V yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông H vì mâu thuẫn giữa bà và ông H đã trầm trọng không có khả năng hàn gắn, hiện vợ chồng bà đã sống ly thân thời gian dài từ năm 2014 đến nay, phần ai nấy sống, không ai còn sự quan tâm, chăm sóc đến nhau, tình cảm không còn. Trong quá trình giải quyết vụ án, ông H cũng thừa nhận mâu thuẫn vợ chồng ông đã trầm trọng, không có khả năng hàn gắn, tình cảm vợ chồng không còn nhưng ông không đồng ý ly hôn theo yêu cầu của bà V vì ông không muốn gia đình mất hạnh phúc. Căn cứ vào lời khai của bà V và ông H và tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án thì cả nguyên đơn và bị đơn đều xác định mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng không có khả năng hàn gắn, tình cảm vợ chồng không còn, Hội đồng xét xử nhận thấy hôn nhân giữa bà V và ông H không còn thương yêu, quý trọng, giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống vợ chồng, do đó hôn nhân giữa bà V và ông H đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu ly hôn của bà V là có căn cứ, phù hợp theo qui định tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình và cũng phù hợp với ý kiến đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Về nuôi con chung: Bà V và ông H có 02 con chung tên Đỗ Ngọc Thanh N, sinh ngày 01-9-1999 và Đỗ Thành N, sinh ngày 25-4-2008. Cháu N đã trưởng thành nên bà không yêu cầu Tòa giải quyết, cháu N chưa đủ tuổi thành niên và đang sống cùng với bà V. Bà V yêu cầu được tiếp tục trực tiếp nuôi cháu N sau khi ly hôn. Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn ông Đỗ Chí H khai nếu Tòa cho ly hôn cháu N có nguyện vọng ở với ai tùy theo ý kiến của cháu, tại phiên tòa ông H không có ý kiến gì. Hội đồng xét xử xét thấy: Lâu nay cháu N sống cùng với bà V đã ổn định tình cảm, mặt khác cháu N có nguyện vọng được ở với mẹ sau khi bà V và H ly hôn, do đó yêu cầu nuôi con chung của bà V là có căn cứ và phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình và cũng phù hợp với ý kiến đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nên được HĐXX chấp nhận.

Về cấp dưỡng nuôi con: Bà V không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Về tài sản chung, nợ chung: Bà V, ông H không yêu cầu Tòa giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[3] Về án phí sơ thẩm: Căn cứ theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 buộc bà Hồ Thị Tường V phải chịu 300.000đ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, khoản 2 Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình; Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Cho bà Hồ Thị Tường V được ly hôn với ông Đỗ Chí H.

2. Về nuôi con chung:

2.1. Giao con chung tên Đỗ Thành N, sinh ngày 25-4-2008 cho bà Hồ Thị Tường V được trực tiếp nuôi dưỡng.

2.2. Về cấp dưỡng nuôi con: Bà V không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không giải quyết.

Vì lợi ích của con khi cần thiết hai bên đều có quyền xin thay đổi việc nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con.

Hai bên có quyền và nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng con chung, không bên nào được ngăn cản.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Bà V không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không giải quyết.

4. Về án phí sơ thẩm: Bà Hồ Thị Tường V phải nộp 300.000đ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0003199 ngày 21/12/2021 của Chi cục thi hành án dân sự Tp. Quy Nhơn. Bà V đã nộp đủ án phí.

5. Về quyền kháng cáo: Bà V có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ. Ông H có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

124
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 459/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:459/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Qui Nhơn - Bình Định
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về