Bản án về ly hôn số 43/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HẢI CHÂU, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 43/2021/HNGĐ-ST NGÀY 28/09/2021 VỀ LY HÔN

Ngày 28/9/2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hải Châu - thành phố Đà Nẵng tiến hành xét xử công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số: 20/2021/TLST-HNGĐ ngày 22 tháng 03 năm 2021 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 39/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 15 tháng 7 năm 2021; Quyết định hoãn phiên tòa số: 26/2021/QĐST – HNGĐ; Thông báo mở lại phiên tòa ngày 13 tháng 9 năm 2021 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Bà Võ Ngọc M, sinh năm: 1989. Trú tại: Đường M, phường N, quận P, thành phố Đà Nẵng (Có mặt)

* Bị đơn: Ông Tôn Thất M, sinh năm: 1993. Địa chỉ: Đường M, phường N, quận P, thành phố Đà Nẵng ( Vắng mặt không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện gửi Tòa án ngày 16/03/2021, tại bản tự khai, trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn bà Võ Ngọc M trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Võ Ngọc M và ông Tôn Thất M tự nguyện kết hôn vào năm 2015, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Phước Ninh, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng. Sau khi kết hôn vợ chồng về chung sống tại đường M, phường N, quận P, thành phố Đà Nẵng. Trong quá trình chung sống, bà và ông M bắt đầu xảy ra mâu thuẫn vào năm 2019 nguyên nhân theo bà M là do ông Tôn Thất M ham chơi bời, không quan tâm đến gia đình, mẫu thuẫn vợ chồng được hai bên gia đình động viên, hòa giải nhưng không có kết quả. Nay bà xác định mục đích hôn nhân không đạt được, tình cảm vợ chồng không còn nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Tôn Thất M.

- Về quan hệ con chung: Bà Võ Ngọc M xác định bà và ông M có 01 (một) con chung tên Tôn Thất Bình An, sinh ngày: 07/07/2016. Ly hôn, bà M yêu cầu được trực tiếp nuôi con Tôn Thất Bình An và yêu cầu ông Tôn Thất M cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 3.000.000 đồng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi.

- Về tài sản chung và nợ chung: Bà Võ Ngọc M không yêu cầu Tòa án đề cập giải quyết.

Tại phiên tòa bà Võ Ngọc M thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con, yêu cầu ông Tôn Thất M cấp dưỡng nuôi con Tôn Thất Bình An mỗi tháng 1.500.000 đồng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi.

* Trong quá trình giải quyết vụ án, Toà án nhân dân quận Hải Châu đã tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, thông báo hoà giải, giấy triệu tập cho ông Tôn Thất M để lấy lời khai và tham gia hoà giải nhưng, ông Tôn Thất M vắng mặt không có lý do nên Tòa án không thể lấy lời khai của ông M cũng như không thể tiến hành hòa giải theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, HĐXX nhận định:

[1]Về thủ tục tố tụng: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng theo quy định tại Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa hôm nay, ông Tôn Thất M là bị đơn đã được Toà án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt tại phiên toà lần thứ hai không có lý do, nên HĐXX căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn ông Tôn Thất M.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Bà Võ Ngọc M và ông Tôn Thất M tự nguyện kết hôn vào năm 2015, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Phước Ninh, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng theo giấy chứng nhận kết hôn số: 79/2015 ngày 07/12/2015. Đây là hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận.

Căn cứ vào lời khai của bà Võ Ngọc M và tại phiên tòa thì thấy rằng giữa bà M, ông M đã xảy ra nhiều mâu thuẫn kéo dài từ năm 2019 cho đến nay. Bà M cho rằng mâu thuẫn vợ chồng là do ông Tôn Thất M thường xuyên chơi bời, không quan tâm đến cuộc sống gia đình, vợ con. Hai vợ chồng đã không còn chung sống với nhau từ năm 2019 cho đến nay, bà M xác định hiện nay tình cảm vợ chồng không còn, bà M không còn quan tâm và yêu thương ông M.

Hội đồng xét xử xét thấy, mâu thuẫn vợ chồng giữa bà M và ông M thực sự đã trầm trọng, sự quan tâm yêu thương lẫn nhau đã giữa hai người không còn. Mặt khác, xuyên suốt quá trình giải quyết vụ án ông Tôn Thất M đều vắng mặt chứng tỏ ông cũng không còn tha thiết hàn gắn cuộc hôn nhân với bà Võ Ngọc M. Do đó, Hội đồng xét xử, xét thấy cần áp dụng các Điều 51 và 56 của Luật hôn nhân và gia đình, chấp nhận đơn xin ly hôn của bà Võ Ngọc M đối với ông Tôn Thất M là có căn cứ.

[2.2] Về quan hệ con chung: Bà Võ Ngọc M xác định quá trình chung sống với nhau bà và ông Tôn Thất M có 01 người con chung tên: Tôn Thất Bình An, sinh ngày: 07/07/2016. Ly hôn, bà M yêu cầu được trực tiếp nuôi con Tôn Thất Bình An và yêu cầu ông Tôn Thất M cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.500.000 đồng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi.

Xét thấy, con chung Tôn Thất Bình An hiện do bà Võ Ngọc M chăm sóc, nuôi dưỡng kể từ khi hai vợ chồng không còn sống chúng với nhau. Do đó, để đảm bảo việc ăn học, không làm xáo trộn cuộc sống của con, Hội đồng xét xử xét thấy cần chấp nhận yêu cầu của bà Võ Ngọc M là được trực tiếp nuôi dưỡng con chung Tôn Thất Bình An.

Đối với yêu cầu ông Tôn Thất M cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.500.000 đồng cho đến khi con chung Tôn Thất Bình An đủ 18 tuổi, Hội đồng xét xử nhận thấy, mức yêu cầu cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.500.000 đồng của bà Võ Ngọc M là thiết yếu cho việc ăn, học của con. Do đó, cần chấp nhận yêu cầu của bà Võ Ngọc M buộc ông Tôn Thất M cấp dưỡng nuôi con Tôn Thất Bình An mỗi tháng 1.500.000 đồng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi là có căn cứ.

[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Quá trình giải quyết vụ án bà Võ Ngọc M không có yêu cầu Tòa án giải quyết. Do đó, Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[3] Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: 300.000 đồng bà Võ Ngọc M phải chịu. Án phí cấp dưỡng nuôi con 300.000 đồng ông Tôn Thất M phải chịu.

[4] Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng phát biểu quan điểm: Về chấp hành pháp luật tố tụng: kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước khi nghị án, thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa đã chấp hành đầy đủ các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; các đương sự trong vụ án cũng đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình. Về nội dung đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Võ Ngọc M.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 147, Điều 227, Điều 235, Điều 266 và Điều 273 Bộ luật tố dụng dân sự; Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30.12.2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

1. Chấp nhận toàn bộ đơn khởi kiện về việc “Ly hôn” của bà Võ Ngọc M đối với ông Tôn Thất M

- Về quan hệ hôn nhân:

Xử: Bà Võ Ngọc M được ly hôn đối với ông Tôn Thất M

- Về quan hệ con chung: Xử: Giao con Tôn Thất Bình An – sinh ngày: 07.07.2016 cho bà Võ Ngọc M trực tiếp nuôi dưỡng. Ông Tôn Thất M có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung Tôn Thất Bình An mỗi tháng 1.500.000 đồng cho đến khi con Tôn Thất Bình An đủ 18 tuổi.

Ly hôn, quyền và nghĩa vụ đối với con chung các bên đương sự thực hiện theo quy định pháp luật.

Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) cho đến khi thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án ( đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 357 Bộ luật dân sự 2015.

- Về tài sản chung, nợ chung: Bà Võ Ngọc M không yêu cầu Tòa án đề cập giải quyết.

2. Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng bà Võ Ngọc M phải chịu, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đ đã nộp tại biên lai thu số 0005318 ngày 19/03/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Hải Châu (Bà M đã nộp đủ án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm). Ông Tôn Thất M phải chịu án phí cấp dưỡng nuôi con: 300.000 đồng.

Các đương sự có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

284
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 43/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:43/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hải Châu - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về