Bản án về ly hôn số 394/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HÀ ĐÔNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 394/2021/HNGĐ-ST NGÀY 29/06/2021 VỀ LY HÔN

Ngày 29 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân quận Hà Đông, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 843/2020/TLST- HNGĐ ngày 27 tháng 11 năm 2020 về việc: Ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 33/QĐXX-HNGĐ ngày 15 tháng 6 năm 2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Phạm Thị Thu G, sinh năm 1989.

HKTT: Số X, nhà C, tập thể K, phường K, quận Đ, thành phố Hà Nội. Hiện ở: Phòng Z, chung cư V - Số V T.H, phường T, quận N, thành phố Hà Nội. mặt.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Mạnh D, sinh năm 1984;

HKTT và trú tại: Số D khu đô thị V, phường P, quận H, thành phố Hà Nội.

Có mặt.

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho chị G: Bà Trần Hồng Phúc và bà Nguyễn Thùy Trang, Luật sư Công ty Luật TNHH Nguyễn Chiến, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn, chị Phạm Thị Thu G trình bày:

1.Về quan hệ hôn nhân: Chị Phạm Thị Thu G và anh Nguyễn Mạnh D tự nguyện kết hôn, có đăng ký kết hôn tại UBND phường Phú La, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội vào ngày 08/11/2017. Sau khi kết hôn vợ chồng về sống tại nhà ở Hà Đông, Hà Nội cùng gia đình chồng. Đến tháng 12/2018, vợ chồng ra ở riêng tại Phòng Z, chung cư V - Số V T.H, phường T, quận N, thành phố Hà Nội.

Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận hạnh phúc được thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh D mải chơi, không tu chí làm ăn, không chăm lo vun vén cho gia đình, vợ, con. Mặc dù là người đã có gia đình, là một người chồng nhưng anh D vẫn giữ lối sống ỷ lại, luôn dựa vào bố mẹ, không có suy nghĩ muốn tự lập hay chủ động chăm lo cho gia đình riêng của mình, cũng không có trách nhiệm với gia đình, bố mẹ hai bên, vợ và con cái.

Mong muốn cho anh D thay đổi và gắn kết tình cảm vợ chồng nên chị đã xin bố mẹ chồng để hai vợ chồng chị ra ở riêng tại chung cư V - số V T.H. Tuy nhiên, thời gian ra ở riêng thì mâu thuẫn vợ chồng ngày càng nhiều hơn. Vợ chồng sống ly thân từ tháng 4 năm 2019, là thời điểm chị đặt phôi (thụ tinh trong ống nghiệm) để sinh con đến nay. Sau khi chị sinh con thì mâu thuẫn vợ chồng tiếp tục trầm trọng hơn bởi những cư xử không phù hợp của anh D với mẹ con chị. Anh D luôn có thái độ không tôn trọng chị và gia đình chị. Tháng 3/2020, chị đưa hai con về nhà ngoại ở một phần do mâu thuẫn vợ chồng và một phần do dịch Covid nên về quê ngoại ở Hải Dương để ông bà ngoại chăm cháu và tránh dịch, còn anh D ở Văn Phú với bố mẹ. Khi đi chị có nhắn tin báo cho anh D và gia đình chồng biết. Trong khoảng thời gian này, anh D liên tục đe dọa, khủng bố tinh thần chị, lăng mạ, xỉ nhục chị cũng như bố mẹ chị. Nay chị G xác định tình cảm vợ chồng không còn, hôn nhân không có hạnh phúc, vợ chồng không thể hàn gắn với nhau được nữa nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Nguyễn Mạnh D để mỗi người có điều kiện ổn định cuộc sống riêng, yên tâm chăm sóc, nuôi dạy con.

2. Về con chung: Trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng chị có hai con chung sinh đôi, là cháu Nguyễn Phạm Gia A, Nguyễn Phạm Gia K, sinh cùng ngày 01/01/2020. Các con hiện đang ở với mẹ, khỏe mạnh, phát triển bình thường. Sau ly hôn, chị G nhận trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cả hai con chung, không đề nghị anh D cấp dưỡng nuôi con. Chị G đảm bảo quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung của anh D.

Chị G xác nhận, tại thời điểm ly hôn, vợ chồng chị không có thai chung.

3. Về tài sản chung: Chị G không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về công nợ chung: Chị G không yêu cầu Tòa án giải quyết.

5. Về án phí: Chị G tự nguyện nộp 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn, anh Nguyễn Mạnh D trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Anh thống nhất với chị G về thời gian kết hôn. Quá trình vợ chồng chung sống, theo anh thấy không có mâu thuẫn gì. Hàng ngày anh vẫn chở vợ đi làm từ nhà ở Văn Phú, Hà Đông đến Công ty Viwaseen QTG. Việc chị G khai anh không phấn đấu thì không đúng vì anh chuyển việc 2-3 lần là để lương tăng dần lên, hiện tại anh là chủ 1 Doanh nghiệp. Về mâu thuẫn vợ chồng, theo anh, chỉ là va vấp nhỏ trong gia đình từ khi anh chị sinh con. Mâu thuẫn chỉ xảy ra khi bà ngoại lên chăm cháu. Mẹ vợ hay để ý việc anh đi sớm về khuya, còn chị G hay ghen tuông nhưng anh chỉ vì bận công việc. Anh xác định mâu thuẫn giữa mẹ vợ với anh, anh có chút sai, anh đã xin lỗi và bố mẹ anh cũng đã xin lỗi bên thông gia nhưng bên thông gia vẫn cố chấp và tác động đến chị G. Trong khi mẹ anh đến chăm sóc chị G thì G không đồng ý. Chị G còn có thái độ không đúng mực, cư xử không lễ phép khi ông bà nội đến chăm cháu. Theo anh, thì ông bà nội rất quý cháu và chăm sóc con dâu. Anh xác nhận hiện vợ chồng anh ly thân từ tháng 4/2020, khi chị G về quê ngoại ở Hải Dương để tránh dịch đến nay. Chị G xin ly hôn, anh không đồng ý vì anh vẫn yêu thương vợ con nên muốn được hòa giải, đoàn tụ để cùng vợ chăm sóc các con ở điều kiện tốt nhất.

- Về con chung: Vợ chồng anh có hai con chung là cháu Nguyễn Phạm Gia A, và Nguyễn Phạm Gia K, sinh cùng ngày 01/01/2020. Các con hiện đang ở với mẹ, khỏe mạnh, phát triển bình thường. Trường hợp nếu phải ly hôn, anh đồng ý cho vợ nuôi con, vì các con còn nhỏ dưới 36 tháng tuổi, anh sẽ cấp dưỡng, mức cấp dưỡng 10.000.000 đồng/tháng cho cả hai con cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác. Đề nghị Tòa tuyên đảm bảo anh có quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung theo quy định của pháp luật không ai được ngăn cản.

- Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về công nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về án phí: Nhất trí để chị G nộp theo quy định.

- Người bảo vệ quyền lợi và hợp pháp cho nguyên đơn có quan điểm: Đây là vụ án Hôn nhân gia đình, do đó chúng tôi cũng mong muốn tòa án hòa giải cho các đương sự đoàn tụ, trường hợp không thể thống nhất được, nhiều mâu thuẫn, bất đồng thì đề nghị giải quyết theo pháp luật.

Quá trình giải quyết vụ án, Chị Phạm Thị Thu G xuất trình 01 vi bằng số 2186 ngày 10/10/2020 tại VP Thừa phát lại Ba Đình về việc ông Phạm Văn M và bà Nguyễn Thị L là bố mẹ đẻ chị G tặng cho chị G số tiền 500.000.000 (Năm trăm triệu đồng) từ tài sản của hợp pháp của gia đình; và 01 vi bằng số 2376 ngày 22/10/2020 tại VP Thừa phát lại Ba Đình về việc ông Phạm Văn M và bà Nguyễn Thị L là bố mẹ đẻ chị G hỗ trợ chị G mỗi tháng 15.000.000 đồng (mười lăm triệu đồng) để chị G ổn định cuộc sống và nuôi con nhỏ.

Chị G xuất trình Hợp đồng lao động và Giấy xác nhận lương hiện tại của chị tại Tổng Công ty đầu tư nước và môi trường Việt Nam CTCP: thu nhập tháng 4/2021 là 10.190.209 đồng, tháng 5/2021 là 8.190.000 đồng.

Tại biên bản xác minh tình trạng mâu thuẫn của vợ chồng anh D, chị G, đại diện UBND phường Phú La cung cấp: Anh D và chị G kết hôn với nhau năm 2017, có đăng ký kết hôn tại UBND phường Phú La, Hà Đông, Hà Nội. Sau khi kết hôn anh chị sống tại nhà ở quận Hà Đông cùng bố mẹ anh D. Quá trình chung sống tại địa chỉ trên không thấy anh chị có mâu thuẫn gì. Sau đó đến năm 2018 thì anh D, chị G ra ở riêng, không sống cùng bố mẹ anh D. Đến khoảng đầu năm 2020 thì thấy anh D một mình về sống với bố mẹ Văn Phú, Hà Đông còn chị G và các con về sống với bố mẹ đẻ chị tại TP. Chí Linh, tỉnh Hải Dương vì vợ chồng mâu thuẫn. Về nguyên nhân mâu thuẫn, theo tìm hiều là bất đồng quan điểm sống, hai bên gia đình đã nói chuyện hòa giải nhưng không có kết quả. Nay chị G có đơn xin ly hôn với anh D, đề nghị Tòa án kiên trì hòa giải cho anh chị đoàn tụ, trường hợp không hòa giải được thì đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật.

Xác minh tại gia đình ông Nguyễn Văn H và bà Trần Thị M là bố, mẹ đẻ anh D, ông H, bà M trình bày: Anh D, chị G khi sống cùng ông, bà thì hòa thuận, hạnh phúc, không có mâu thuẫn gì. Mâu thuẫn xảy ra khi anh, chị ra ở riêng tại Chung cư 48 Tố Hữu. Anh, chị bất đồng quan điểm sống, không có sự chia sẻ với nhau trong cuộc sống gia đình. Mâu thuẫn gay gắt, anh D phải về nhà bố mẹ ở. Tháng 2/2020 thì chị G đưa con về ngoại ở, do dịch Covid nên anh D không về thăm con được mà chỉ gửi tiền về cho vợ chăm con. Đến tháng 6/2020 gia đình ông, bà muốn đón cháu về nhưng chị G không đồng ý. Nay chị G xin ly hôn anh D thì ông, bà mong muốn Tòa án hòa giải cho anh chị đoàn tụ về cùng nuôi dạy con.

Tại phiên tòa:

- Chị G giữ nguyên yêu cầu như đơn khởi kiện, xin được ly hôn anh D và được trực tiếp nuôi các con chung, không yêu cầu anh D cấp dưỡng nuôi con chung và đảm bảo quyền thăm nom, chăm sóc giáo dục con chung đối với anh D.

- Anh D không đồng ý ly hôn để vợ chồng cùng chăm sóc con. Nếu phải ly hôn, anh D đồng ý cho chị G được trực tiếp nuôi dưỡng con chung vì các con còn nhỏ dưới 36 tháng tuổi và đề nghị được đảm bảo quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung của anh đối với các con. Anh D rút phần cấp dưỡng nuôi con chung đối với chị G, vì chị G đã chứng minh được khả năng tài chính để nuôi con và không yêu cầu anh cấp dưỡng.

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho chị G có quan điểm: Về quan hệ hôn nhân, căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu các bên cung cấp cũng như các buổi hòa giải tại Tòa án cho thấy vợ chồng chị G, anh D đã mâu thuẫn trầm trọng, có quá trình ly thân và đã được gia đình, Tòa án hòa giải nhưng không có kết quả, chị G kiên quyết xin ly hôn. Thực tế vợ chồng hiện không còn đời sống chung, mục đích trong việc xây dựng gia đình hạnh phúc, cùng bên nhau chung sống, yêu thương quan tâm chia sẻ với nhau, nuôi dạy con chung là không đạt được. Do vậy qua nhiều lần hòa giải và tại phiên tòa cũng không đạt được kết quả hòa giải nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị G theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình; về yêu cầu xin nuôi con, trong thời kỳ hôn nhân, anh D và chị G có hai con chung, các cháu còn nhỏ dưới 36 tháng tuổi, chị G có thu nhập và chỗ ở ổn định đủ điều kiện nuôi dạy các con nên đề nghị Hội đồng xét xử giao 02 con chung cho chị G trực tiếp nuôi dưỡng. Chị G bảo đảm quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung của anh D; về cấp dưỡng nuôi con chung, chị G không yêu cầu anh D cấp dưỡng và anh D cũng rút nguyện vọng cấp dưỡng nuôi con nên đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo quy định.

- Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm giải quyết vụ án: Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã thực hiện đầy đủ thủ tục tố tụng; nguyên đơn, bị đơn, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Xét thấy vợ chồng chị G, anh D có mâu thuẫn và vợ chồng đã có thời gian sống ly thân, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị G, cho chị G được ly hôn anh D; Đề nghị giao cho chị G được trực tiếp nuôi dưỡng con chung vì các cháu còn nhỏ chưa đủ 36 tháng tuổi, đang ở ổn định cùng mẹ; ghi nhận việc chị G không yêu cầu anh D cấp dưỡng nuôi con; tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung đối với anh D cho đến khi có sự thay đổi khác.

Về tài sản, công sức và công nợ chung: không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

Về án phí, chị G phải chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

Về tố tụng: Chị Phạm Thị Thu G khởi kiện xin ly hôn anh Nguyễn Mạnh D nên đây là tranh chấp về việc Ly hôn. Hiện anh D đang trú tại địa chỉ KĐT Văn Phú, phường Phú La, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội, do đó theo quy định tại các điều 28, 35, 39 Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân quận Hà Đông, thành phố Hà Nội.

Về nội dung:

[1]. Về quan hệ hôn nhân: Chị Phạm Thị Thu G và anh Nguyễn Mạnh D kết hôn trên cơ sở tự nguyện, tuân thủ các điều kiện kết hôn, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Phú La, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội ngày 08/11/2017 theo đúng quy định của pháp luật nên là hôn nhân hợp pháp.

Trên cơ sở tài liệu thu thập được trong quá trình giải quyết vụ án, lời khai của chị G, anh D tại các phiên hòa giải và tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy: Quá trình kết hôn, chung sống, vợ chồng chị G, anh D hạnh phúc thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng về tính cách và quan điểm sống. Chị G luôn cảm thấy bị áp lực, không được chồng quan tâm, tôn trọng, chia sẻ những khó khăn về kinh tế, công việc gia đình đến cách chăm sóc con. Từ mâu thuẫn vợ chồng dẫn đến mâu thuẫn hai bên thông gia. Mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, không có tiếng nói chung, hôn nhân không hạnh phúc. Mặc dù anh, chị và hai gia đình đã gặp gỡ nói chuyện khuyên nhủ, Tòa án đã kiên trì hòa giải để anh chị về đoàn tụ nhưng không có kết quả. Anh chị đã có thời gian sống ly thân, không còn quan hệ tình cảm vợ chồng, không còn thực hiện nghĩa vụ vợ chồng với nhau. Cho đến thời điểm hiện tại, hai bên cũng không tìm được biện pháp nào để hàn gắn tình cảm, quay về đoàn tụ với nhau. Như vậy, mục đích hôn nhân giữa chị G, anh D không đạt được trên thực tế. Nay chị G xin ly hôn là có căn cứ theo quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, do vậy cần chấp nhận yêu cầu của chị G, cho chị G được ly hôn anh D.

[2]. Về con chung: Vợ chồng anh, chị có hai con chung là cháu Nguyễn Phạm Gia A, và Nguyễn Phạm Gia K, sinh đôi cùng ngày 01/01/2020. Các con hiện đang ở với mẹ, khỏe mạnh, phát triển bình thường. Chị G xin được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu anh D cấp dưỡng. Anh D đồng ý cho vợ nuôi con, vì các con còn nhỏ dưới 36 tháng tuổi. Anh D đề nghị Tòa tuyên đảm bảo anh có quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung theo quy định của pháp luật không ai được ngăn cản. Anh không cấp dưỡng nuôi con chung với chị G vì chị G không yêu cầu.

Xét thấy, cả hai anh chị đều có nghề nghiệp, có thu nhập ổn định và đều có điều kiện để nuôi con chung. Tuy nhiên, hiện nay các con chung của anh chị chưa đủ 36 tháng tuổi cần được sự chăm sóc của người mẹ và hiện đang được mẹ trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng ổn định. Nên giao các con chung cho chị G trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng là phù hợp, có căn cứ và đúng theo quy định của luật Hôn nhân và gia đình.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị G không yêu cầu anh D cấp dưỡng nuôi con. Xét, đây là sự tự nguyện của chị G nên Hội đồng xét xử chấp nhận. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con đối với anh D cho đến khi có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

[3]. Về tài sản, công sức và công nợ chung: Chị G và anh D đều không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xét.

[4]. Về án phí: Chị G phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm (được đối trừ số tiền tạm ứng án phí đã nộp).

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào các điều 28, 35, 39, 147, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Căn cứ vào các điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Phạm Thị Thu G đối với anh Nguyễn Mạnh D. Cho chị Phạm Thị Thu G được ly hôn anh Nguyễn Mạnh D.

2. Về con chung: Vợ chồng anh, chị có hai con chung là cháu Nguyễn Phạm Gia A, và Nguyễn Phạm Gia K, sinh đôi cùng ngày 01/01/2020. Giao chị G trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng các con chung là cháu Nguyễn Phạm Gia A, và Nguyễn Phạm Gia K, sinh đôi cùng ngày 01/01/2020 kể từ khi ly hôn cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc đến khi có sự thay đổi khác.

Anh D có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung theo quy định của pháp luật, không ai được cản trở.

Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con đối với anh D cho đến khi có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

3. Về tài sản chung, công nợ chung: Chị G và anh D đều không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xét.

4. Về án phí: Chị Phạm Thị Thu G phải nộp 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm (được đối trừ số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí chị G đã nộp theo biên lai thu tiền số 0009892 ngày 27/11/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Hà Đông, thành phố Hà Nội).

5. Về quyền kháng cáo: Án xử công khai, các đương sự có mặt, có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

184
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 394/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:394/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hà Đông - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về