Bản án về ly hôn số 33/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÒA BÌNH, TỈNH HÒA BÌNH

BẢN ÁN 33/2021/HNGĐ-ST NGÀY 22/09/2021 VỀ LY HÔN

Ngày 22 tháng 9 năm 2021 tại Tòa án nhân dân thành phố H xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số: 163/2021/TLST- HNGĐ ngày 18 tháng 6 năm 2021, về việc ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 30/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 09 tháng 8 năm 2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1991 Địa chỉ: thôn Đ, xã C, huyện L, tỉnh H. Vắng mặt (đã có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

Bị đơn: nh Nguyễn Văn H, sinh năm 1989 Địa chỉ: xóm T, xã T, thành phố H, tỉnh H. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

1. Theo đơn khởi kiện và các bản khai, nguyên đơn trình bày:

Ngày 05/5/2021, chị Nguyễn Thị T, nộp đơn xin ly hôn với anh Nguyễn Văn H, với nội dung: Ngày 10/11/2011, chị Nguyễn Thị T và anh Nguyễn Văn H kết hôn với nhau, có đăng ký kết hôn theo tại Ủy ban nhân dân xã H, thành phố H, tỉnh H. Việc kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có thời gian tìm hiểu. Trong quá trình chung sống, vợ chồng đã phát sinh mâu thuẫn từ rất lâu, do hai bên không hòa hợp với nhau về tính cách. Vợ chồng sống ly thân. Chị Thơ yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn. Về con chung: có 01 con chung là Nguyễn Phương T, sinh ngày 27/10/2013; Hiện nay con đang ở với mẹ. Nguyện vọng của chị T là muốn được nuôi con, chưa yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con chung. Về tài sản chung và công nợ chung: Chị T khai trong quá trình chung sống vợ chồng không có tài sản chung, không có công nợ chung. Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ngày 06/9/2021, chị Nguyễn Thị T đã nộp cho Tòa án đơn xin xét xử vắng mặt do tình hình dịch bệnh Covid diễn biến phức tạp và căng thẳng; huyện L tỉnh H (là nơi cư trú của chị T) thực hiện giãn cách xã hội theo Chỉ thị số 16/CT-TTg về các biện pháp cấp bách phòng, chống dịch COVID-19 của chính phủ. Chị T có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

2. Ý kiến của bị đơn:

Sau khi thụ lý đơn khởi kiện của chị T, Tòa án đã tiến hành thông báo triệu tập đương sự, nhưng anh Nguyễn Văn H liên tục vắng mặt không có lý do. Theo đề nghị của chị T, Tòa án đã tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ tại địa phương.

3. Kết quả xác minh, thu thập chứng cứ: bà Đinh Thị H, trưởng xóm Tôm, xã Thịnh Minh, thành phố Hòa ình, tỉnh Hòa ình cho biết: nh Nguyễn Văn H không có công việc ổn định, thường hay đi nay đây mai đó, không rõ đi đâu, thỉnh thoảng mới thấy anh H xuất hiện ở xóm. Anh H và chị T đã ly thân từ rất lâu rồi. Nhà của anh H tại xóm T thường khóa cửa, không thấy có ai. Giấy triệu tập và các thông báo Tòa án gửi đến, bà H không thể giao được cho anh H.

Tòa án nhân dân Thành phố H đã tiến hành niêm yết công khai thông báo thụ lý vụ án; thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải; iên bản về việc kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ. Sau khi đã xác minh, thu thập chứng cứ đầy đủ, Tòa án đã ban hành Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 30/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 09/8/2021, đồng thời tiến hành niêm yết công khai Quyết định này. Do anh Nguyễn Văn H vắng mặt, Tòa án quyết định hoãn phiên tòa và tiến hành niêm yết công khai quyết định hoãn phiên tòa số 22/2021/QĐST-HNGĐ ngày 25/8/2021 theo quy định của pháp luật. Đến nay anh H vẫn vắng mặt không có lý do.

4. Những nội dung thống nhất, không thống nhất: vụ án thuộc trường hợp không tiến hành hòa giải được theo quy định tại Điều 207 - Bộ luật tố tụng dân sự.

5. Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa:

*/ Về tố tụng: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố H phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật của những người tiến hành tố tụng Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa đã bảo đảm đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Việc tham gia tố tụng của nguyên đơn và đề nghị vắng mặt của nguyên đơn là phù hợp. Việc vắng mặt của anh H, các thủ tục tố tụng về việc cấp, tống đạt, niêm yết văn bản tố tụng cũng đã bảo đảm quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Phiên tòa xét xử vắng mặt tất cả các đương sự đã bảo đảm quy định tại Điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự.

*/ Về nội dung vụ án:

- Về quan hệ hôn nhân: căn cứ thực trạng hôn nhân giữa vợ chồng chị T và anh H đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng quy định tại Điều 51, 56, Luật Hôn nhân và gia đình, xử cho chị T được ly hôn với anh Nguyễn Văn H.

- Về con chung: đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 81, 82, 83 - Luật Hôn nhân và gia đình giao con cho chị T nuôi dưỡng. Vấn đề cấp dưỡng nuôi con chưa đặt ra, vì chị T chưa có yêu cầu. Người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom con chung theo pháp luật.

- Về tài sản chung, công nợ chung: chị T khai không có tài sản chung, công nợ chung, không yêu cầu giải quyết nên không đề cập.

- Về án phí và quyền kháng cáo: đề nghị Hội đồng xét xử tuyên theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ và thẩm tra công khai tại phiên tòa; ý kiến của Kiểm sát viên; Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về áp dụng pháp luật tố tụng:

- Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: chị Nguyễn Thị T, có địa chỉ tại thôn Đ, xã C, huyện L, tỉnh H nộp đơn xin ly hôn với anh Nguyễn Văn H có nơi đăng ký hộ khẩu thường trú tại: xóm T, xã T, thành phố H, tỉnh H - đây là tranh chấp ly hôn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh H theo quy định tại Khoản 1 Điều 28, Điểm a Khoản 1 Điều 35 và Điểm a Khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

- Về sự vắng mặt của đương sự: trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tiến hành cấp, tống đạt, niêm yết các văn bản tố tụng. Việc giải quyết, xét xử vắng mặt tất cả những người tham gia tố tụng đã bảo đảm các quy định tại Điều 207, 208, Khoản 3 Điều 210; Điều 227, 228, 238, 254 của Bộ luật tố tụng dân sự. Ngoài ra, việc cấp, tống đạt văn bản tố tụng là các Giấy triệu tập, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; kết quả phiên họp; Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa…đã bảo đảm đúng các quy định tại Điều 173, 177, 178, 179 của Bộ luật tố tụng dân sự về cấp, tống đạt, niêm yết công khai văn bản tố tụng. Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử là cần thiết và đúng quy định của pháp luật. Ngoài ra, việc hoãn phiên tòa lần thứ nhất cũng đã bảo đảm quy định tại Điều 233 của Bộ luật tố tụng dân sự và bảo đảm quyền được tham gia tố tụng của anh H.

[2]. Về nội dung vụ án:

- Về quan hệ hôn nhân: chị Nguyễn Thị T và anh Nguyễn Văn H tự nguyện kết hôn với nhau, có đăng ký kết hôn hợp pháp. Trước khi làm đơn ly hôn thì chị T và anh H đã sống ly thân từ năm 2013. Chị T xác định tình cảm vợ chồng không còn nên có đơn khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh H.

Hội đồng xét xử thấy thực trạng cuộc sống chung vợ chồng chị T và anh H - xảy ra mâu thuẫn đã lâu, chị T đã mang theo con chung về nhà bố mẹ đẻ để ở. Trong thời gian ly thân, anh H không quan tâm thăm hỏi, không có sự chăm sóc, hàn gắn tình cảm đối với vợ con. Mục đích của hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị T, xử cho chị T được ly hôn với anh H để ổn định cuộc sống. Phù hợp với quy định tại Khoản 1 Điều 51, Khoản 1 Điều 56, Luật Hôn nhân và Gia đình. Về con chung: nên giao con cho chị T nuôi dưỡng như tình trạng hiện nay là phù hợp. Về tài sản chung, công nợ chung: chị T khai không có gì, không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết trong vụ án này.

[3]. Về án phí: chị T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định tại Khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự và Điểm a, Khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

[4]. Về quyền kháng cáo: các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Khoản 1 Điều 28, Điểm a Khoản 1 Điều 35 và Điểm a Khoản 1 Điều 39; Điều 173, 177, 178, 179; Điều 207, 208; Điều 227, 228, 233, 238, 254 của Bộ luật tố tụng dân sự; Khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng Dân sự và Điểm a, Khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Khoản 1 Điều 51; Khoản 1 Điều 56; Điều 81, 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình;

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn;

1. Về quan hệ hôn nhân : xử cho chị Nguyễn Thị T được ly hôn với anh Nguyễn Văn H.

2. Về con chung: chị T và anh H có 01 con chung tên là Nguyễn Phương T, sinh ngày 27/10/2013; giao con chung Nguyễn Phương T cho chị Nguyễn Thị T trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng. Chị T chưa có yêu cầu cấp dưỡng nuôi con. Anh Nguyễn Văn H có quyền thăm nom con chung theo quy định của pháp luật.

3. Về án phí: chị Nguyễn Thị T phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí ly hôn sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0004364 ngày 17/6/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố H.

4. Về quyền kháng cáo: đương sự vắng mặt (chị T, anh H) có quyền kháng cáo để xét xử theo trình tự phúc thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày ản án được tống đạt hợp lệ hoặc niêm yết

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

202
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 33/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:33/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hòa Bình - Hoà Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về