Bản án về ly hôn số 24/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ T, TỈNH H

BẢN ÁN 24/2022/HNGĐ-ST NGÀY 13/04/2022 VỀ LY HÔN

Hôm nay, ngày 13 tháng 4 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố T mở phiên tòa công khai để xét xử sơ thẩm vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số 965/2021/TLST- HNGĐ ngày 14/12/2021 về việc “Ly hôn”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 18/2022/QĐST-HNGĐ ngày 28/3/2022 giữa các đương sự sau:

1. Nguyên đơn: Võ Thị V – sinh năm 1976 Địa chỉ: 5/32 đường V, phường H, thành phố T Có mặt

2. Bị đơn: Ông Phan Văn Đ – sinh năm 1968 Địa chỉ: 5/32 đường V, phường H, thành phố T Có đơn xin vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn bà Võ Thị V trình bày tại đơn khởi kiện, bản tự khai và tại phiên tòa: Tôi và ông Phan Văn Đ kết hôn năm 1998, có đăng ký kết hôn. Suốt nhiều năm chung sống ông Đ thường xuyên uống rượu rồi chửi bới xúc phạm tôi. Tôi đã nhiều lần nói chuyện với ông Đ nhưng ông Đức vẫn không thay đổi. Tôi cũng đã nhiều lần viết đơn xin ly hôn nhưng vì nghĩ đến các con nên lại thôi. Cách đây một năm ông Đ cũng nộp đơn ly hôn nhưng sau đó ông nói ly hôn sẽ ảnh hưởng đến công việc của ông nên ông không ly hôn nữa. Bản thân tôi thấy không còn tình cảm với ông Đ, chúng tôi sống với nhau nhưng không hạnh phúc nên tôi xin ly hôn với ông Đ.

Tôi và ông Đ có 02 con chung là Phan Quốc H sinh ngày 15/11/1998 và Phan Văn T sinh ngày 16/3/2008. Cháu H đã trưởng thành khỏe mạnh trên 18 tuổi còn cháu T tôi xin nuôi và yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi con 5.000.000 đồng/tháng.

Tài sản chung và nợ chung chúng tôi tự giải quyết.

Bị đơn ông Phan Văn Đ trình bày tại bản tự khai và biên bản lấy lời khai ngày 19/01/2022: Tôi và bà Võ Thị V kết hôn năm 1998, có đăng ký kết hôn. Trong thời gian chung sống, vợ chồng rất hạnh phúc. Tôi có uống rượu nhưng không thường xuyên. Tôi không hiểu sao vợ tôi lại xin ly hôn. Những gì bà V nói về tôi là không đúng. Chỉ có bà Vân là thường xuyên vắng nhà, một tuần chỉ về nhà 1-2 lần chứ tôi không có vấn đề gì. Tôi không đồng ý ly hôn.

Tôi và bà V có 02 con chung là Phan Quốc H sinh ngày 15/11/1998 và Phan Văn T sinh ngày 16/3/2008. Cháu Huy đã trưởng thành khỏe mạnh trên 18 tuổi còn cháu T tôi đồng ý giao cho bà V nuôi dưỡng, tôi đồng ý cấp dưỡng nuôi con 5.000.000 đồng/tháng.

Tài sản chung và nợ chung chúng tôi tự giải quyết.

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố T phát biểu quan điểm:

chấp nhận yêu cầu xin ly hôn, con chung của nguyên đơn. Về tài sản chung, không xem xét do đương sự không yêu cầu.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử nhận định:

* Về thủ tục tố tụng:

- Việc bà Võ Thị V khởi kiện yêu cầu được giải quyết ly hôn với ông Phan Văn Đ, xét yêu cầu khởi kiện của bà V là hoàn toàn đúng pháp luật nên chấp nhận và vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố T.

- Tại phiên toà hôm nay ông Phan Văn Đ vắng mặt, tuy nhiên trong hồ sơ vụ án đã có lời khai của ông Đ và ông Đ cũng có đơn xin xét xử vắng mặt nên căn cứ khoản 1 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt ông Phan Văn Đ.

* Về nội dung vụ án: Bà Võ Thị V và ông Phan Văn Đ tự nguyện kết hôn được Ủy ban nhân dân xã C- huyện K – tỉnh H cấp giấy chứng nhận kết hôn số 19, quyển số 01/98 ngày 17/8/1998. Đây là hôn nhân hợp pháp.

Hội đồng xét xử xét thấy: Nguyên đơn – bà V khai rằng trong quá trình chung sống ông Đ thường xuyên xúc phạm bà, còn ông Đ không thừa nhận điều này. Tuy nhiên, trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án, bà V cương quyết xin ly hôn nhưng ông Đ không có biện pháp nào để bà V thay đổi quyết định, không có thiện chí tham gia các buổi hòa giải để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Tại phiên tòa, bà V vẫn giữ yêu cầu xin ly hôn với ông Đ. Do đó, có thể nhận thấy rằng cuộc sống hôn nhân của bà V và ông Đ không hạnh phúc, tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn được, do đó cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà V.

- Về con chung: Bà Võ Thị V và ông Phan Văn Đ có 02 con chung là Phan Quốc H sinh ngày 15/11/1998 và Phan Văn T sinh ngày 16/3/2008. Cháu H đã trưởng thành khỏe mạnh trên 18 tuổi còn cháu T bà V xin nuôi và yêu cầu ông Đ cấp dưỡng nuôi con 5.000.000 đồng/tháng. Ông Đ đồng ý giao con cho bà V nuôi dưỡng, đồng ý cấp dưỡng nuôi con 5.000.000 đồng/tháng. Cháu T cũng có nguyện vọng muốn sống với mẹ. Hội đồng xét xử xét thấy cần chấp nhận yêu cầu của bà V, giao con chung là Phan Văn T sinh ngày 16/3/2008 cho bà V trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục theo quy định tại Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình. Ông Phan Văn Đ có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con 5.000.000 đồng/tháng kể từ tháng 4/2022 cho đến khi con chung tròn 18 tuổi.

- Về tài sản chung và nợ chung: Đương sự không yêu cầu do đó Hội đồng xét xử không xem xét, nếu sau này các đương sự có đơn yêu cầu sẽ được giải quyết bằng vụ kiện dân sự khác.

- Về án phí: Bà Võ Thị V phải nộp án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật, ông Phan Văn Đ phải nộp án phí DS-ST phần cấp dưỡng nuôi con.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 227, Điều 235, Điều 264, Điều 267 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015;

- Căn cứ vào Điều 51, Điều 56, Điều 57, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật hôn nhân gia đình năm 2014;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn giảm, thu , nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1/ Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, bà Võ Thị V được ly hôn ông Phan Văn Đ.

2/ Về con chung: giao con chung là Phan Văn T sinh ngày 16/3/2008 cho bà Võ Thị V trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến tuổi trưởng thành. Ông Phan Văn Đ có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con 5.000.000 đồng/tháng kể từ tháng 4/2022 cho đến khi con chung tròn 18 tuổi.

Ông Phan Văn Đ được quyền thăm nom, chăm sóc con chung, không ai được quyền cản trở. Đồng thời ông Đ có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi dưỡng.

Vì lợi ích của con, khi cần thiết bà V, ông Đ có quyền làm đơn yêu cầu thay đổi việc nuôi con cũng như cấp dưỡng nuôi con.

3/ Về tài sản chung và nợ chung: Đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xét, nếu sau này các đương sự có đơn yêu cầu thì sẽ được giải quyết bằng vụ kiện dân sự khác.

4/ Về án phí: Bà Võ Thị V phải nộp 300.000đ án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng bà V đã nộp 300.000đ tạm ứng án phí theo biên lai thu tiền số AA/2021/0000820 ngày 14/12/2021 của Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố T, bà Võ Thị V đã nộp đủ án phí HNGĐ-ST.

Ông Phan Văn Đ có nghĩa vụ nộp 300.000 đồng án phí DS-ST phần cấp dưỡng nuôi con.

Nguyên đơn được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

200
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 24/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:24/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nha Trang - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 13/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về