Bản án về ly hôn số 15/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUỴÊN TRIỆU SƠN, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 15/2022/HNGĐ-ST NGÀY 30/03/2022 VỀ LY HÔN

Ngày 30 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự về “Ly hôn” thụ lý số 327/2021/TLST- HNGĐ ngày 22 tháng 111 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 09/2022/QĐXX- ST ngày 24/01/2022, Quyết định hoãn phiên tòa số 05/2021/QĐST-HNGĐ ngày 14/02/2022 và thông báo hoãn phiên tòa số 03 ngày 28/02/2022 giữa các đương sự.

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 2001 Nơi cư trú: Thôn N, xã T, huyện T - Thanh Hóa

Bị đơn: Anh Lê Văn L, sinh năm 1999 Nơi cư trú: Thôn X, xã H, huyện T, tỉnh Thanh Hóa

Nguyên đơn chị Nguyễn Thị H có mặt, bị đơn anh Lê Văn L vắng mặt lần thứ hai không có ly do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, bản tự khai và tại phiên tòa. Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Hà trình bày: Chị và anh L sau thời gian tìm hiểu và tự nguyện kết hôn với nhau, có đăng ký kêt hôn ngày 07/7/2021 tại Ủy ban nhân dân xã T huyện T, tỉnh Thanh Hóa, sau khi kết hôn vợ chồng sống chung được khoảng nửa tháng thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm, anh L tính ham chơi không quan tâm đến vợ và gia đình, không tu chí làm ăn, nhiều lần đi chơi cả tuần không về, chị H động viên góp ý anh L không nghe, bố mẹ hai bên góp ý thì anh L có lời lẽ thiếu tế nhị đối với bố mẹ, mỗi khi anh L ở nhà chị H góp ý khuyên nhủ anh L về tìm công việc làm ăn giúp đỡ gia đình nhưng anh L không vừa lòng và chửi mắng xúc phạm chị H sau đó bỏ đi chơi theo bạn bè, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, cuối tháng 9/2021 chị H bỏ về nhà mẹ đẻ ở thôn N, xã T huyện T sinh sống cho đến nay, mặc dù nhiều lần chị H điện thoại thăm hỏi động viên anh L để vợ chồng đoàn tụ nhưng anh L không nghe mà còn đề nghị ly hôn, nay chị H xét thấy vợ chồng mới kết hôn mà mâu thuẫn, bất đồng không có tiếng nói chung, không có tình cảm thương yêu tôn trọng, chia sẽ lẫn nhau, cuộc sống chung không có hạnh phúc, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh L.

Về con cái, tài sản: Chị H trình bày vợ chồng kết hôn và sống chung được khoảng 1 tuần thì anh L thường xuyên bỏ nhà đi chơi với bạn bè cả đêm ít khi về nhà nên vợ chồng ít có thời gian gần gũi nhau nên không có con chung, cũng chưa tạo dựng được tài sản chung nên không yêu cầu giải quyết về con cái tài sản.

Đối với bị đơn anh Lê Văn L, sau khi thụ lý vụ án tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho anh Linh nhưng anh L không có ý kiến gì, cũng không đến Tòa án làm việc nên tòa án không ghi nhận được ý kiến anh L.

Ý kiến của đại diện viện kiểm sát huyện Triệu Sơn phát biểu như sau:

*> Việc việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và đương sự:

Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán: Xác định đúng quan hệ pháp luật, đúng tư cách người tham gia tố tụng, tiến hành các hoạt động tố tụng như ra thông báo thụ lý, hòa giải, tiến hành xác minh, thu thập tài liệu chứng cứ, tống đạt văn bản tố tụng, giao hồ sơ cho viện kiểm sát nghiên cứu đúng trình tự tố tụng dân sự.

Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử: Tại phiên tòa HĐXX đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm và đảm bảo đúng nguyên tắc xét xử.

Việc tuân theo pháp luật của Thư ký phiên tòa: Thư ký phiên tòa thực hiện đúng đủ trình tư thủ tục tố tụng.

Việc chấp hành pháp luật của đương sự: Từ khi thụ lý vụ án cũng như tại phiên tòa các đương sự thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về quyền và nghĩa vụ của đương sự.

*> Về nội dung:

Về hôn nhân: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 56 Luật hôn nhân gia đình chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị H, xử cho chị H được ly hôn anh L.

Về con cái, tài sản chị H trình bày không có, anh Linh không có ý kiến gì nên không xem xét.

Về án phí: Đề nghị áp dụng Điều 147 BLTTDS, Nghị quyết số 326/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016 quy định về án phí lệ phí Tòa án, buộc nguyên đơn phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Sau khi thụ ly vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tung cho bị đơn anh Lê Văn L, nhưng anh Linh không có ý kiến gì, cũng không đến Tòa án làm việc nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến anh L. Ngày 14/02/2022 Tòa án đưa vụ án ra xét xử anh L vắng mặt lần thứ nhất không có ly do nên Tòa án đã hoãn phiên tòa và Tống đạt quyết định hoãn phiên tòa cho anh L, tại phiên tòa hôm nay anh L vắng mặt lần thứ hai không có lý do, căn cứ điểm b khỏan 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bị đơn.

[2] Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị H và anh Lê Văn L kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày 07/7/2021 tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, sau khi kết hôn, vợ chồng sống chung được khoảng nửa tháng thì phát sinh mâu thuẫn, do anh L ham chơi bạn bè, không tu chí làm ăn, không quam tâm tới tình cảm chị H, mặc dù vợ chồng mới kết hôn nhưng anh L thường xuyên theo bạn bè đi chơi thâu đêm không về, chị H và gia đình động viên góp ý anh L không nghe mà còn có lời lẽ thiếu tế nhị. Cuộc sống hôn nhân của vợ chồng kéo dài được khoảng gần hai tháng, chị H xét thấy vợ chồng không có sự đồng cảm yêu thương nhau, anh L không quan tâm tới chị mà thường bỏ chị ở nhà 1 mình đi chơi với bạn bè, cuộc sống chung không có hạnh phúc, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh L, quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã báo hòa giải nhiều lần nhưng anh L không có ý kiến gì, cũng không đến Tòa án làm việc mà bỏ mặc chị H không quan tâm tới tình cảm vợ chồng, như vậy tình trạng hôn nhân của vợ chồng là trầm trọng, cuộc sống chung không có hạnh phúc, việc chị H xin ly hôn anh L là có căn cứ phù hợp với thực trạng hôn nhân của vợ chồng, phù hợp với kết quả xác minh của Tòa án và phù hợp với quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận đơn yêu cầu ly hôn của chị H, xử cho chị H được ly hôn anh L.

[3] Về con cái, tài sản: Chị H trình bày sau khi kết hôn, anh L thường xuyên bỏ chị ở nhà đi chơi với bạn bè cả tuần không về nên vợ chồng ít có cơ hội gần nhau nên không có con chung, không có tài sản chung, chị H không yêu cầu giải quyết, anh L cũng không có ý kiến gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về án phí: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lý lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Diểm b khoản 2 Điều 227, khoản 4 Điều 147, Điều 271, 273, 280 của Bộ luật tố tụng dân sự; Khoản 1 Điều 56, 57 Luật hôn nhân và gia đình; Điểm a khoản 5, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm thu nộp, quản lý về án phí, lệ phí Tòa án.

Về hôn nhân: Xử ly hôn giữa chị Nguyễn Thị H và anh Lê Văn L Về con cái, tài sản: Không xem xét giải quyết

Về án phí: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị H phải chịu 300.000đ án phí hôn nhân sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ theo biên lai số AA/0006357 ngày 22/11/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Triệu Sơn,chị H đã nộp đủ án phí Quyền kháng cáo, kháng nghị: Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa, được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị đơn được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết, thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp và cấp trên theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

239
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 15/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:15/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Triệu Sơn - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về