Bản án về ly hôn số 1426/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN H, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 1426/2022/HNGĐ-ST NGÀY 29/09/2022 VỀ LY HÔN

Ngày 29 tháng 9 năm 2022 tại tr ụ s ở T ò a án nhân dân huyện H , Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 355/2022/TLST – HNGĐ ngày 29 tháng 3 năm 2022 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 317/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 15 tháng 8 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 279/2022/QĐST-HNGĐ ngày 07 tháng 9 năm 2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Kim Th, sinh năm: 1977 (có mặt).

Địa chỉ: Ấp L, xã B, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh.

2. Bị đơn: Ông Đỗ Duy L, sinh năm: 1971 (vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp T, xã C, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 12 tháng 3 năm 2022, bản tự khai ngày 22 tháng 4 năm 2022 và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Kim Th trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Năm 1999, bà và ông Đỗ Duy L kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã B, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh.

Sau khi kết hôn cuộc sống vợ chồng hạnh phúc được vài năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do chồng gia trưởng nên không có tiếng nói chung, ông L không lo làm ăn để lo cho gia đình, không tôn trọng cha mẹ vợ. Hai vợ chồng sống ly thân từ năm 2018 đến nay, vợ chồng không còn quan tâm, chăm sóc nhau. Từ lúc ly thân, bà là người nuôi dưỡng, chăm sóc các con, ông L không chu cấp. Nay bà thấy cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, mâu thuẫn vợ chồng nghiêm trọng, không thể hàn gắn nên yêu cầu được ly hôn với ông L.

Về con chung: Có 02 con chung tên Đỗ Nguyễn Duy T, sinh năm 2000 và Đỗ Nguyễn Quỳnh N, sinh ngày 12/9/2003. Hai cháu Duy T và Quỳnh N đã trưởng thành và có khả năng tự lo cuộc sống bản thân.

Về tài sản chung: Không có Nợ chung: Không có.

Bị đơn là ông Đỗ Duy L đã được Tòa án nhân dân huyện H triệu tập và tống đạt Thông báo thụ lý vụ án; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Quyết định hoãn phiên tòa hợp lệ nhưng không có ý kiến đồng thời vắng mặt tại các phiên họp và phiên tòa xét xử sơ thẩm mà không có lý do.

Tại phiên toà:

Nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Kim Th giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

Bị đơn là ông Đỗ Duy L đã được Tòa án nhân dân huyện H triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu ý kiến:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án: Tòa án nhân dân huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh thụ lý và giải quyết vụ án theo thủ tục sơ thẩm là đúng thẩm quyền. Trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán, thư ký và Hội đồng xét xử đã tuân thủ theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Đối với việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn đã thực hiện đúng theo quy định tại các điều 70, 71 của Bộ luật Tố tụng dân sự; bị đơn chưa thực hiện đúng theo quy định tại các điều 70, 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Quan điểm giải quyết vụ án: Việc bà Nguyễn Thị Kim Th yêu cầu ly hôn với ông Đỗ Duy L là có căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, bởi bà Th và ông L không còn yêu thương, quan tâm, chăm sóc nhau, mâu thuẫn hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ vào các điều 19, 56 của Luật Hôn nhân và gia đình 2014 đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn; về con chung tên Đỗ Nguyễn Duy T, sinh năm 2000 và Đỗ Nguyễn Quỳnh N, sinh ngày 12/9/2003 đã thành niên nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét; về tài sản chung, nợ chung:

Nguyên đơn tự khai không có nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho ông Đỗ Duy L nhưng ông L không có ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của bà Th đồng thời vắng mặt tại các phiên họp và phiên tòa xét xử sơ thẩm mà không có lý do nên giữa các đương sự không thống nhất được bất kỳ nội dung nào của vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, ý kiến phát biểu của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện H, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án:

Bà Nguyễn Thị Kim Th có đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn đối với ông Đỗ Duy L. Ông L cư trú tại ấp T, xã C, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh và quan hệ tranh chấp là Ly hôn nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2]. Về tố tụng: Bị đơn là ông Đỗ Duy L đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt tại phiên tòa không có lý do. Căn cứ vào khoản 2 Điều 227 của ộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành t ử vắng mặt đối với đương sự là đúng trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3]. Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

[3.1]. Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Kim Th và ông Đỗ Duy L kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã B, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh ngày 26/10/1999 (theo giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 140/1999 ngày 26/10/1999) nên có đủ căn cứ ác định quan hệ hôn nhân giữa bà Th và ông L là hợp pháp, quyền lợi của các bên được pháp luật bảo vệ.

[3.2]. Xét yêu cầu ly hôn của nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Kim Th, Hội đồng xét xử nhận thấy: Theo lời khai của nguyên đơn thì trong quá trình chung sống vợ chồng bà phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do chồng gia trưởng nên không có tiếng nói chung, ông L không lo làm ăn để lo cho gia đình, không tôn trọng cha mẹ vợ, vì mâu thuẫn nên hai vợ chồng sống ly thân từ năm 2018 đến nay.

[3.3]. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cũng đã nhiều lần giải thích, động viên bà Th đoàn tụ gia đình, cho ông L cơ hội để hàn gắn, xây dựng hạnh phúc gia đình nhưng bà Th cho rằng đã cố gắng và cũng đã tạo nhiều cơ hội nhưng không thành, do đó hai vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2018 đến nay, bản thân bà nhận thấy cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, mâu thuẫn vợ chồng nghiêm trọng, không thể hàn gắn nên vẫn giữ nguyên yêu cầu được ly hôn.

[3.4]. Về phần ông L, mặc dù đã được Tòa án nhân dân huyện H tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng ông L không có bất cứ ý kiến nào phản đối yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, không cung cấp tài liệu, chứng cứ, đồng thời vắng mặt tại các phiên họp và phiên tòa xét xử sơ thẩm mà không có lý do, điều này cho thấy ông L đã từ bỏ quyền phản đối của mình đối với yêu cầu của nguyên đơn nên phải tự chịu hậu quả của việc không chứng minh theo khoản 2 Điều 91 và khoản 2 Điều 92 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Vì vậy, căn cứ vào khoản 4 Điều 91 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử căn cứ trên yêu cầu khởi kiện, lời khai của nguyên đơn và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ để xem xét, giải quyết vụ án.

[3.5]. Trong suốt thời gian 02 vợ chồng sống ly thân cũng như thời gian bà Th nộp đơn yêu cầu ly hôn, ông L cũng không có bất cứ động thái nào để hàn gắn lại tình cảm vợ chồng, xây dựng hạnh phúc gia đình. Điều này chứng tỏ ông L cũng không còn mong muốn níu kéo cuộc hôn nhân này để vợ chồng cùng vun đắp, xây dựng hạnh phúc gia đình.

[3.6]. Nhận thấy, hôn nhân chỉ đạt được mục đích khi uất phát từ tình thương yêu giữa hai vợ chồng, có sự tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình; vun đắp hạnh phúc, làm tròn quyền và nghĩa vụ của vợ chồng. Tuy nhiên, giữa bà Th và ông L đã trải qua thời gian dài không chung sống với nhau, không còn thương yêu, quý trọng, quan tâm, chăm sóc đến nhau, mỗi người đều chỉ lo cuộc sống riêng của mình. Như vậy, bà Th, ông L đã vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ chồng theo quy định tại Điều 19 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3.7]. Xét mâu thuẫn chung giữa bà Th và ông L đã trầm trọng, không thể hàn gắn được, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, bà Th yêu cầu ly hôn là có căn cứ và phù hợp với quy định tại Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên có cơ sở để chấp nhận.

[4]. Về con chung: Bà Nguyễn Thị Kim Th và ông Đỗ Duy L có 02 con chung tên Đỗ Nguyễn Duy T, sinh năm 2000 và Đỗ Nguyễn Quỳnh N, sinh ngày 12/9/2003. Hai cháu Duy T và Quỳnh N đã thành niên, do đó Hội đồng xét xử không xem xét.

[5]. Về tài sản chung: Bà Nguyễn Thị Kim Th xác nhận không có tài sản chung nên không yêu cầu giải quyết, do đó Hội đồng xét xử không xem xét.

[6]. Về nợ chung: Bà Nguyễn Thị Kim Th xác nhận không có nợ chung nên không yêu cầu giải quyết, do đó Hội đồng xét xử không xem xét.

[7]. Về án phí dân sự sơ thẩm: Do bà Nguyễn Thị Kim Th là người nộp đơn yêu cầu ly hôn đối với ông Đỗ Duy L nên bà Th phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

[8]. Xét ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn là có căn cứ nên chấp nhận.

[9]. Về kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 271; khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227, Điều 271, khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự ;

- Căn cứ vào Điều 19, Điều 51, khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án;

- Căn cứ vào các điều 2, 6, 7, 7a, 9, 30 Luật Thi hành án dân sự năm 2008, được sửa đổi, bổ sung năm 2014;

Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Kim Th đối với ông Đỗ Duy L:

2. Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Kim Th được ly hôn với ông Đỗ Duy L.

Giấy chứng nhận kết hôn số 140/1999 đăng ký kết hôn giữa bà Nguyễn Thị Kim Th và ông Đỗ Duy L tại Ủy ban nhân dân xã B, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh ngày 26/10/1999 không còn hiệu lực khi bản án này có hiệu lực pháp luật.

3. Về con chung: Hai cháu Đỗ Nguyễn Duy T và Đỗ Nguyễn Quỳnh N đã thành niên, do đó Hội đồng xét xử không xem xét.

4. Về tài sản chung: Bà Nguyễn Thị Kim Th xác nhận không có tài sản chung nên không yêu cầu giải quyết, do đó Hội đồng xét xử không xem xét.

5. Về nợ chung: Bà Nguyễn Thị Kim Th xác nhận không có nợ chung nên không yêu cầu giải quyết, do đó Hội đồng xét xử không xem xét.

6. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị Kim Th phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng theo biên lai số AA/2021/0039102 ngày 29 tháng 3 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh; bà Nguyễn Thị Kim Th đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

6. Quyền yêu cầu thi hành án, nghĩa vụ thi hành án, thời hiệu thi hành án:

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, được bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung Luật thi hành án dân sự năm 2014, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự và Điều 7a Luật sửa đổi, bổ sung Luật thi hành án dân sự năm 2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

7. Quyền kháng cáo: Đương sự mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

76
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 1426/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:1426/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hóc Môn - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về