Bản án về ly hôn số 139/2023/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỸ XUYÊN, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 139/2023/HNGĐ-ST NGÀY 26/12/2023 VỀ LY HÔN

Ngày 26 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện X tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 175/2023/TLST-HNGĐ ngày 17 tháng 10 năm 2023; về việc “Ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 348/2023/QĐXXST-DS ngày 15 tháng 11 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số 286/2023/QĐST-DS ngày 12 tháng 12 năm 2023, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị B, sinh năm 1976;

Địa chỉ: Ấp Q, xã W, thành phố E, tỉnh Kiên Giang.

Chỗ ở hiện nay: Ấp T, xã Y, huyện U, tỉnh Cà Mau. (có đơn xin vắng mặt)

- Bị đơn: Ông Trần Văn M, sinh năm 1971;

Địa chỉ: Ấp I, xã O, huyện X, tỉnh Sóc Trăng. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

1. Theo đơn khởi kiện đề ngày 14/07/2023 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn Nguyễn Thị B trình bày: Nguyên năm 1994, bà Nguyễn Thị B với ông Trần Văn M xác lập quan hệ hôn nhân, cho đến năm 2002 mới đăng ký kết hôn và được UBND xã Y, huyện U, tỉnh Cà Mau cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 219 ngày 14/12/2002. Sau đám cưới bà bé cùng ông Trần Văn M sinh sống tại ấp 2, xã Y, huyện U, tỉnh Cà Mau. Trong quá trình chung sống ông bà có một con chung là Nguyễn Văn V, sinh ngày 15/11/1995, không có tài sản chung, không có nợ chung và cũng không có người khác nợ vợ chồng. Trong thời gian đầu chung sống hạnh phúc, nhưng thời gian sau vợ chồng thường xảy ra mâu thuẫn, cải vã và bất đồng trong cuộc sống, ông Trần Văn M không chăm lo làm ăn và không chăm sóc vợ con nên vợ chồng không còn chung sống từ năm 2010 cho đến nay.

Nay bà Nguyễn Thị B nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng, không thể tiếp tục chung sống nên yêu cầu Tòa án giải quyết:

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị B xin được ly hôn với ông Trần Văn M.

- Về con chung: Nguyễn Văn V đã trưởng thành.

- Về tài sản chung, nợ chung, người khác nợ vợ chồng: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

2. Bị đơn Trần Văn M: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án só 175/2023/TB-TLVA ngày 17/10/2023 của Tòa án nhân dân huyện X, tỉnh Sóc Trăng (cha ông Trần Văn M nhận thay ngày 19/10/2023) nên ông Trần Văn M cũng đã biết nội dung, căn cứ khởi kiện và những vấn đề bà Nguyễn Thị B yêu cầu Tòa án giải quyết, nhưng ông Trần Văn M không có văn bản trả lời theo Toà án ấn định. Đồng thời, Tòa án đã triệu tập tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng vẫn không tham gia.

* Tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn xin vắng mặt và không có ý kiến khác nên xem như giữ nguyên nội dung đơn yêu cầu khởi kiện.

* Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc tuân thủ và chấp hành đúng pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án. Đồng thời, phát biểu quan điểm về tính có căn cứ và hợp pháp của yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, theo phát biểu và đề nghị của Kiểm sát viên và người tham gia tố tụng, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[I] Về tố tụng :

[1] Theo đơn khởi kiện, nguyên đơn Nguyễn Thị B yêu cầu Tòa án giải quyết xin được ly hôn với ông Trần Văn M; con chung Nguyễn Văn V, sinh ngày 15/11/1995 đã trưởng thành (trên 18 tuổi), tài sản chung, nợ chung, người khác nợ vợ chồng không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Khi thụ lý vụ án, Tòa án xác định quan hệ tranh chấp “Ly hôn” là là đúng theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.

[2] Trong vụ án bị đơn Trần Văn M cư trú tại ấp I Tần, xã O, huyện X, tỉnh Sóc Trăng, vụ án được giải quyết theo thủ tục sơ thẩm và không có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần ủy thác tư pháp. Do vậy, Toà án nhân dân huyện X, tỉnh Sóc Trăng thụ lý, xét xử vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.

[3] Tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn Nguyễn Thị B có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; bị đơn Trần Văn M đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai để tham gia phiên tòa sơ thẩm mà vẫn vắng mặt không lý do và không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan, việc vắng mặt không ảnh hưởng đến việc xét xử. Do vậy, Hội đồng xét xử căn cứ theo quy định tại Điều 227, Điều 228 và Điều 238 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015, tiến hành xét xử vụ án.

[II] Về nội dung :

[1] Nguyên đơn Nguyễn Thị B và bị đơn Trần Văn M chung sống và kết hôn với nhau là trên cơ sở tự nguyện, không ai ép buộc, được UBND xã Y, huyện U, tỉnh Cà Mau cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 219 ngày 14/12/2002, nên quan hệ hôn nhân giữa bàNguyễn Thị B với ông Trần Văn M là hợp pháp. Sau khi kết hôn ông bà chung sống hạnh phúc và đã có con chung, theo bà Nguyễn Thị B trong thời gian chung sống sau này vợ chồng thường xảy ra mâu thuẫn, cải vã và bất đồng trong cuộc sống nên đời sống hôn nhân lạnh nhạt, không còn chung sống vợ chồng từ năm 2010 cho đến nay. Bị đơn Trần Văn M tuy không có ý kiến và không tham gia tố tụng nhưng biết về nội dung khởi kiện và yêu cầu của nguyên đơn mà không phản đối.

[2] Theo quy định tại Điều 39 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về quyền nhân thân trong hôn nhân và gia đình “Cá nhân có quyền kết hôn, ly hôn...; Cá nhân thực hiện quyền nhân thân trong hôn nhân và gia đình theo quy định của Bộ luật này, Luật hôn nhân và gia đình...” và theo quy định tại khoản 1 Điều 51 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 thì “Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn”. Do đó, bà Nguyễn Thị B hoặc bà Nguyễn Thị B cùng ông Trần Văn M có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn, nên ngày 14/07/2023 bà Nguyễn Thị B tự mình gửi đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết được ly hôn với ông Trần Văn M là phù hợp theo quy định pháp luật.

[3] Theo nguyên đơn Nguyễn Thị B thì trong thời gian chung sống sau này vợ chồng thường xảy ra mâu thuẫn, cải vã và bất đồng trong cuộc sống, ông Trần Văn M không quan tâm, chăm lo cho vợ con nên đời sống hôn nhân lạnh nhạt, không còn chung sống vợ chồng từ năm 2010 cho đến nay. Xét thấy, thời gian bà Nguyễn Thị B và ông Trần Văn M không còn chung sống vợ chồng tính đến thời điểm khởi kiện và xét xử sơ thẩm là đã nhiều năm và mâu thuẫn vợ chồng đã phát sinh trong thời gian chung sống và cũng đã kéo dài, đến mức trầm trọng, làm cho cuộc sống vợ chồng không được hạnh phúc, đời sống chung không thể kéo dài và mục đích của hôn nhân cũng không đạt được, tình cảm vợ chồng thật sự đã hết và về tương lai cũng không thể hàn gắn được, nếu duy trì quan hệ hôn nhân sẽ ảnh hưởng đến cuộc sống bình thường của các bên và đến việc nuôi dạy con cái, nay bà Nguyễn Thị B cương quyết ly hôn với ông Trần Văn M. Do đó, theo bà Nguyễn Thị B yêu cầu xin được ly hôn với ông Trần Văn M là có căn cứ và phù hợp quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, nên Hội đồng xét xử chấp.

[4] Về con chung, Nguyễn Văn V sinh ngày 15/11/1995 đã trưởng thành (trên 18 tuổi) không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[5] Về tài sản chung, nợ chung và người khác nợ lại, theo bà Nguyễn Thị B xác nhận không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét. Nếu sau này có phát sinh và tranh chấp thì sẽ khởi kiện, giải quyết theo quy định pháp luật.

[6] Từ những phân tích và nhận định như đã nêu trên, theo yêu cầu khởi kiện nguyên đơn là có căn cứ, nên được chấp nhận.

[7] Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có cơ sở, nên được chấp nhận.

[8] Về án phí dân sự sơ thẩm, nguyên đơn phải chịu án phí hôn nhân theo mức án phí không giá ngạch theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015; theo hướng dẫn tại điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 228 và Điều 238 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;

Áp dụng khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 và khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 39 Bộ luật Dân sự năm 2015; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tu yên xử :

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị B.

- Về quan hệ hôn nhân: Đồng ý cho bà Nguyễn Thị B và ông Trần Văn M được ly hôn.

- Về con chung: Nguyễn Văn V sinh ngày 15/11/1995 đã trưởng thành (trên 18 tuổi) không yêu cầu nên Tòa án không đặt ra xem xét.

- Về tài sản chung, nợ chung và người khác nợ lại: Theo bà Nguyễn Thị B không có và không yêu cầu giải quyết nên Tòa án không đặt ra xem xét.

2. Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị B phải chịu 300.000 đồng nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo Biên lai thu số 0010351 ngày 12/10/2023 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện X, tỉnh Sóc Trăng. Như vậy, bà Nguyễn Thị B đã nộp đủ án phí hôn nhân sơ thẩm.

3. Báo các đương sự biết, án xử sơ thẩm công khai có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (đối với đương sự không có mặt tại phiên tòa kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án tại UBND cấp xã nơi cư trú) để xin Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử lại vụ án theo trình tự phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2014), thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2014).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

46
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 139/2023/HNGĐ-ST

Số hiệu:139/2023/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mỹ Xuyên - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về