Bản án về ly hôn số 11/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, TỈNH B

BẢN ÁN 11/2021/HNGĐ-ST NGÀY 27/07/2021 VỀ LY HÔN

Ngày 27/7/2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh B xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 66/2021/TLST - HNGĐ, ngày 16/4/2021 về "Ly hôn" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 12/2021/QĐXXST - DS, ngày 02/7/2021; Quyết định hoãn phiên tòa số: 09/2021/QĐST - HNGĐ, ngày 19/7/2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị L, sinh năm 1982 (có mặt). Nơi cư trú: Thôn T, xã An B, huyện Th, tỉnh B.

2. Bị đơn: Anh Vương Bá T, sinh năm 1979 (vắng mặt). Nơi cư trú: Thôn Đ, xã Đ, huyện T, tỉnh B.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện, bản tự khai và các biên bản lấy lời khai và tại phiên tòa, nguyên đơn trình bày:

Quan hệ về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị L kết hôn cùng anh Vương Bá T vào ngày 18/8/2014. Trước khi cưới đôi bên có được tìm hiểu và có đăng ký kết hôn tại UBND xã Đ, huyện T, tỉnh B. Sau ngày cưới theo phong tục tập quán của địa phương chị L về chung sống cùng anh T ngay. Thời gian đầu vợ chồng sống hòa thuận, hạnh phúc.

Theo chị L trình bày: Mâu thuẫn vợ chồng phát sinh từ sau ngày cưới khoảng 01 năm, nguyên nhân do bất đồng quan điểm, hằng ngày anh T thường xuyên uống uống rượu say vô cớ đánh chửi chị. Ngoài ra còn nguyên nhân do vợ chồng chậm sinh con. Sau thời gian đó mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trở nên trầm trọng và kéo dài cũng vì những nguyên trên. Do chán nản nên từ tháng 5/2018 chị đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở và cũng từ gian đó đến nay vợ chồng sống ly thân chấm dứt mọi quan hệ. Nay chị xác định mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, không có khả năng đoàn tụ, không còn hạnh phúc nên chị đề nghị Toà án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Tấn càng sớm càng tốt.

Về con chung: Chị L trình bày, vợ chồng không có con chung và hiện tại chị không có thai với anh T.

Về tài sản, nợ chung, ruộng đất nông nghiệp và công sức: Chị L không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán và Hội đồng xét xử: Thẩm phán; Hội đồng xét xử và thư ký phiên toà đã tuân theo đúng quy định của pháp luật từ khi thụ lý, xây dựng hồ sơ vụ án, tổ chức hòa giải và điều hành phiên tòa.

- Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng: Từ khi vụ án thụ lý vụ án cũng như tại phiên toà hôm nay nguyên đơn đã chấp hành đúng các quy định tại các Điều 70,71 của Bộ luật Tố tụng dân sự; bị đơn không các đương đã chấp hành đúng các quy định tại các Điều 70,72 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Những yêu cầu, kiến nghị cần khắc phục vi phạm về tố tụng: Không.

- Về quan điểm giải quyết vụ án: Sau khi phân tích đánh giá Đại diện VKS đề nghị HĐXX: Áp dụng khoản 1 Điều 51, 56 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 144,147, khoản 2 Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; xử:

+ Về quan hệ vợ chồng: Xử cho chị Nguyễn Thị L được ly hôn với anh Vương Bá T.

+ Về án phí: Chị Nguyễn Thị L phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ được thẩm tra tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Tại phiên toà hôm nay mặc dù anh Vương Bá T vắng mặt, nhưng anh T đã được Toà án tống đạt Quyết định đưa vụ án ra xét xử và giấy triệu tập hợp lệ lần thứ hai nên HĐXX vẫn tiến hành xét xử vụ án là phù hợp với khoản 2 Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị L kết hôn với anh Vương Bá T vào ngày 18/8/2014. Trước khi đăng ký kết hôn đôi bên có được tìm hiểu và tự nguyện đến UBND xã Đ, huyện T, tỉnh B đăng ký kết hôn. Do vậy, đã có đủ căn cứ để xác định quan hệ hôn nhân giữa chị L anh T là hợp pháp. Sau ngày cưới theo phong tục tập quán của địa phương chị L về chung sống cùng anh T ngay. Vợ chồng anh chị cũng có thời gian chung sống hòa thuận, hạnh phúc.

Trong thời gian chung sống chị L anh T thường xuyên bất đồng quan điểm, ngoài ra còn nguyên nhân do anh Tấn không có khả năng sinh con nên nhiều lần vợ chồng xảy ra việc đánh cãi nhau, chị L đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở nhiều lần. Từ tháng 5/2018 cho đến nay chị L bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở hẳn và vợ chồng sống ly thân chấm dứt mọi quan hệ. Nay chị L xác định mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, không có khả năng đoàn tụ, không còn hạnh phúc nên chị đề nghị Toà án giải quyết cho chị được ly hôn với anh T. Nhận thấy, quá trình giải quyết vụ án qua thu thập chứng cứ của ông Vương Bá Đ là bố đẻ anh T đại diện gia đình và Trưởng thôn Đ nơi anh T cư trú thì thấy: Mâu thuẫn của vợ chồng anh T chị L trong thời gian chung sống là do anh Tấn không có khả năng sinh con và do bất đồng quan điểm sống nên vợ chồng thường xuyên cãi nhau. Từ tháng 5/2018 đến nay anh T chị L sống ly thuân chấm dứt mọi quan hệ. Hiện tại anh T vẫn sinh sống tại địa phương, sáng anh đi làm tối về nhà. Do anh T đi làm nên người thân trong gia đình nhận thay anh T giấy triệu tập, văn bản tố tụng của Tòa án và đã giao cho anh T đầy đủ, nhưng anh T đều không đến Toà án làm việc và cũng không có văn bản trả lời cho Toà án. Xét thấy, trong quá trình giải quyết vụ án Toà án đã đảm bảo các quyền và nghĩa vụ của anh T theo đúng quy định của pháp luật. Từ những căn cứ trên đã đủ cơ sở kết luận: Mâu thuẫn vợ chồng chị L anh T đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Liên và xử cho chị L được ly hôn với anh T là phù hợp Điều 51,56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[3]. Về con chung: Chị L anh T không có con chung và hiện tại chị L không có thai với anh T.

[4]. Về tài sản chung, nợ chung, công sức và ruộng đất nông nghiệp: Do chị L anh T không yêu cầu Toà án xem xét, giải quyết không yêu cầu nên HĐXX không xem xét, giải quyết.

[5]. Về án phí: Căn cứ vào khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Chị L là nguyên đơn trong vụ án nên chị L phải chịu chịu 300.000 đồng ly hôn sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 144, Điều 147, khoản 2 Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí tòa án:

- Quan về hệ hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị L được ly hôn với anh Vương Bá T.

- Về án phí: Chị Nguyễn Thị L phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng chị L đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thuận Thành theo biên lai số: AA/2020/0003791, ngày 16/4/2021. Xác nhận chị L đã nộp đủ 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.

Chị L có mặt tại phiên toà được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Anh T vắng mặt tại phiên toà được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được tống đạt bán án hoặc niêm yết bản án theo quy định của pháp luật./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

146
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 11/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:11/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Yên - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về