Bản án về ly hôn số 104/2023/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ RG, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 104/2023/HNGĐ-ST NGÀY 20/10/2023 VỀ LY HÔN

 Ngày 20 tháng 10 năm 2023, tại phòng xử án của Tòa án nhân dân Thành phố R G xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số: 275/2023/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 6 năm 2023, về việc: “Tranh chấp ly hôn và nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 120/2023/QĐST-HNGĐ ngày 31 tháng 8 năm 2023, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn : Chị Nguyễn Thị Kiều T, sinh năm 1992. Địa chỉ: Số 1000 Mạc Cửu, khu phố Nguyễn Thái Bình, phường Vĩnh Quang, Thành phố R G, tỉnh G. (Có mặt).

2. Bị đơn  : Anh Võ Công Th, sinh năm 1993. Địa chỉ: Số 146 Nguyễn Bỉnh Khiêm, phường V, Thành phố R G, tỉnh G. (Vắng mặt lần thứ 2).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện xin ly hôn đề ngày 05/5/2023 và trong quá trình xét xử nguyên đơn chị Nguyễn Thị Kiều T trình bày: Chị T và anh Th tự nguyện quen nhau, đi đến tổ chức lễ cưới và chung sống vợ chồng vào năm 2018, có đăng ký kết hôn và được UBND phường Vĩnh Quang, Thành phố R G, tỉnh G cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 21/8/2019.

Lý do chị T yêu cầu xin ly hôn: Chị T cho rằng, do quá trình chung sống tính tình đôi bên không hợp, bất đồng quan điểm, bất đồng ý kiến trong cách cư xử và sinh hoạt thường ngày; vợ chồng thường hay cự cải, xúc phạm nhau. Cả hai đã nhiều lần hòa giải hàn gắn nhưng không mang lại kết quả mà mâu thuẫn ngày càng trầm trọng thêm, cả hai đã tự ly thân từ tháng 12/2019 cho đến nay. Nhận thấy cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, mục đích của hôn nhân không đạt được nên chị T làm đơn xin ly hôn với anh Th.

Về con chung: Chị T xác nhận có 01 người con chung tên Võ Ngọc H, sinh ngày 11/7/2019, hiện đang sống cùng chị T.

Về tài sản chung, nợ chung: Chị T xác nhận không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Quá trình tố tụng và tại phiên tòa chị T yêu cầu:

Về hôn nhân: Chị T yêu cầu được ly hôn với anh Th.

Về con chung: Chị T yêu cầu tiếp tục nuôi người con chung tên Võ Ngọc H, sinh ngày 11/7/2019. Chị T không yêu cầu anh Th cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Bị đơn anh Võ Công Th đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do, không có văn bản trình bày ý kiến.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Toà án đã thực hiện đầy đủ trình tự, thủ tục theo quy định Bộ luật tố tụng dân sự như tống đạt: Thông báo thụ lý; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Quyết định đưa vụ án xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa; Giấy báo phiên toà hợp lệ, nhưng Bị đơn anh Th vắng mặt. Tại phiên tòa nguyên đơn đồng ý xét xử vắng mặt Bị đơn. Căn cứ vào Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử thống nhất xử vắng mặt Bị đơn anh Võ Công Th.

[2] Nhận định về quan hệ hôn nhân: Chị T và anh Th tự nguyện quen nhau, đi đến tổ chức lễ cưới và chung sống vợ chồng vào năm 2013, có đăng ký kết hôn trể hạn và được UBND phường Vĩnh Quang, Thành phố R G, tỉnh G cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 21/8/2019. Căn cứ Điều 8, Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình, quan hệ hôn nhân giữa chị T và anh Th được xác định là hôn nhân hợp pháp.

[3] Xét yêu cầu xin ly hôn của chị T, Hội đồng xét xử xét thấy: Vợ chồng chị T và anh Th không còn thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau để cùng xây dựng mái ấm gia đình bền vững và hạnh phúc; xuất phát từ việc tính tình đôi bên không hòa hợp, bất đồng quan điểm, bất đồng ý kiến từ đó thường hay cự cải, xúc phạm nhau; vợ chồng không còn thông cảm, quan tâm và chia sẻ với nhau trong cuộc sống. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã thực hiện đầy đủ trình tự, thủ tục để hòa giải hôn nhân và gia đình nhưng anh Th cố tình lánh mặt không đến Tòa án, điều đó cho thấy anh Th cũng không có thiện chí và mong muốn trong việc hàn gắn lại tình cảm với chị T. Hội đồng xét xử xét thấy tình trạng hôn nhân giữa chị T và anh Th đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Trong phần nghị án Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị T được ly hôn với anh Th.

[4] Về con chung: Có 01 người con chung tên Võ Ngọc H, sinh ngày 11/7/2019, hiện đang sống cùng chị T. Chị T yêu cầu tiếp tục nuôi người con chung và không yêu cầu anh Th cấp dưỡng nuôi con.

Xét thấy, quá trình trông nom, nuôi dưỡng các con chung chị T đã thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ của người mẹ đối với con; đảm bảo được quyền, lợi ích hợp pháp của con. Do đó, để đảm bảo môi trường sống, sự phát triển, quyền lợi mọi mặt của những người con chung. Trong phần nghị án, Hội đồng xét xử thống nhất: Giao người con chung tên Võ Ngọc H, sinh ngày 11/7/2019 cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng là hoàn toàn phù hợp. Do chị T không có yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về tài sản chung, nợ chung: Chị T xác nhận không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Quá trình tố tụng và tại phiên tòa, anh Th vắng mặt, không có văn bản thể hiện ý kiến đối với tài sản chung và nợ chung của vợ chồng. Trường hợp, anh Th có tranh chấp về tài sản chung, nợ chung của vợ chồng thì sẽ khởi kiện Th vụ kiện khác.

[6] Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: chị T phải chịu án phí số tiền 300.000 đồng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 28; khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Áp dụng Điều 9, Điều 51, Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Áp dụng điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử :

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Kiều T và anh Võ Công Th.

2. Về con chung: Giao người con chung tên Võ Ngọc H, sinh ngày 11/7/2019 cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng. Chị T không yêu cầu anh Th cấp dưỡng nuôi con.

Anh Th được quyền tới lui thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung, không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Chị T xác nhận không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét. Trường hợp, anh Th có tranh chấp về tài sản chung, nợ chung của vợ chồng thì sẽ khởi kiện Th vụ kiện khác.

4. Về án phí dân sự sơ thẩm ly hôn: Chị T phải nộp 300.000 đồng. Chị T đã tạm nộp 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0007530, ngày 17/5/2023 tại chi cục Thi hành án Dân sự Thành phố R G, nên chị T được khấu trừ.

5. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014;

thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

18
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 104/2023/HNGĐ-ST

Số hiệu:104/2023/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Rạch Giá - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/10/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về