TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẠ LONG, TỈNH QUẢNG NINH
BẢN ÁN 102/2021/HNGĐ-ST NGÀY 27/10/2021 VỀ LY HÔN
Ngày 27 tháng 10 năm 2021, tại hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố L xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 879/2021/TLST-HNGĐ ngày 03 tháng 11 năm 2020 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 188/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 15 tháng 9 năm 2021, Quyết định hoãn phiên tòa số: 187/2021/QĐST-HNGĐ ngày 29 tháng 9 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 201/2021/QĐST-HNGĐ ngày 13 tháng 10 năm 2021, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Bàn Thị L – sinh ngày xx/xx/19xx;
Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn T2, xã N, thành phố L, tỉnh Quảng Ninh; Chỗ ở: Số nhà xx ngõ xxx, khu T3, phường B, thành phố L, tỉnh Quảng Ninh – có mặt.
- Bị đơn: Anh Trương Văn T1 – sinh ngày xx/xx/19xx;
Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn T2, xã N, thành phố L, tỉnh Quảng Ninh – vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện, lời tự khai, Biên bản hòa giải và tại phiên tòa, nguyên đơn chị Bàn Thị L trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Chị kết hôn với anh Trương Văn T1 vào ngày 04/01/2002 trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện và có đăng ký kết hôn hợp pháp tại Ủy ban nhân dân thị trấn Trới, huyện B (nay là phường B, thành phố L), tỉnh Quảng Ninh. Trước khi kết hôn, anh chị có thời gian tìm hiểu nhau khoảng 01 năm. Trước đó, anh T1 đã có vợ là Hoàng Thị Dưỡng và có 02 con với chị Dưỡng là Trương Công Sinh và Trương Công Thành nhưng do mâu thuẫn nên đã ly hôn từ khoảng tháng 3/2001, còn chị trước đó cũng đã có chồng là Lê Doãn Năm có 01 con chung với anh Năm là Lê Doãn Minh nhưng cũng do mâu thuẫn vợ chồng nên chị và anh Năm đã ly hôn với nhau từ năm 2000.
Sau khi kết hôn, anh chị về chung sống với nhau tại nhà riêng của anh chị ở tổ x, khu T3, phường B, thành phố L, tỉnh Quảng Ninh.
Thời gian đầu vợ chồng chung sống có hạnh phúc, đến năm 2010 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không có tiếng nói chung, không còn tình cảm dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi nhau. Bản thân anh T1 hay uống rượu say xỉn và chửi bới xúc phạm chị và gia đình chị.
Chị và anh T1 đã nói chuyện với nhau để tìm cách khắc phục mâu thuẫn vợ chồng nhưng không thành. Đến ngày 24/02/2020, chị đã ra ngoài thuê nhà trọ sinh sống ở số nhà xx ngõ xx, khu T3, phường B, thành phố L, tỉnh Quảng Ninh, chị và anh T1 sống ly thân với nhau từ đó cho đến nay.
Nay, tình cảm của chị dành cho anh T1 không còn nữa, mẫu thuẫn vợ chồng đã thực sự trầm trọng, kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu Tòa án nhân dân thành phố L giải quyết cho chị được ly hôn với anh Trương Văn T1.
Về con chung: Chị và anh T1 có 01 con chung là Trương Tâm P – sinh ngày xx/x/20xx. Quá trình khởi kiện, chị L có quan điểm khi ly hôn, chị đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng con chung cho đến khi đủ 18 tuổi và không yêu cầu anh T1 phải cấp dưỡng cho con. Thời điểm hiện nay, con chung đã đủ 18 tuổi và không có nhược điểm về thể chất, tâm thần nên chị không đề cập về vấn đề nuôi dưỡng con chung.
Về tài sản chung: Chị và anh T1 tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về công nợ chung: Không có.
Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập hợp lệ bị đơn anh Trương Văn T1 nhiều lần nhưng anh T1 cố tình vắng mặt nên không lấy được lời khai của anh T1. Ngày 26/8/2021, Tòa án đã tiến hành làm việc với anh T1 tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã N, thành phố L có sự chứng kiến của Công chức Tư pháp – Hộ tịch, anh T1 lấy lý do không biết chữ nên không ký và điểm chỉ vào bất cứ văn bản, giấy tờ nào.
Quá trình làm việc, anh T1 thể hiện quan điểm: Điều kiện, hoàn cảnh kết hôn giữa anh với chị Bàn Thị L đúng như chị L đã trình bày. Quá trình chung sống của vợ chồng anh hạnh phúc đến khoảng năm 2010 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, chị L thích ca hát văn nghệ thỉnh thoảng lại vắng nhà mấy hôm, bản thân anh thấy buồn nên tìm đến uống rượu. Anh và chị L cũng đã nhiều lần nói chuyện với nhau để tìm cách khắc phục mâu thuẫn, anh cũng đã bày tỏ quan điểm không muốn chị L cứ bỏ nhà đi hát hò như vậy nhưng chị L không nghe vì cho rằng đó là sở thích riêng của mỗi người không được ngăn cấm.
Đến ngày 24/02/2020, chị L đã bỏ ra ngoài thuê nhà trọ sinh sống ở số nhà 01 ngõ 348, khu Trới 2, phường B, thành phố L, tỉnh Quảng Ninh, anh và chị L sống ly thân với nhau từ đó cho đến nay. Bản thân anh nhận thấy vẫn còn tình cảm với chị L và nhận thấy giữa anh và chị L đều là những người đã 01 lần đổ vỡ, lại có với nhau 01 con chung nên mong muốn Tòa án hòa giải cho vợ chồng anh được đoàn tụ chung sống với nhau để cùng lo cho các con.
Về con chung: Anh và chị L sinh được 01 con chung là Trương Tâm P – sinh ngày 20/8/2003. Đến thời điểm hiện nay, con chung đã thành niên, không có nhược điểm về thể chất, tâm thần và cũng chuẩn bị đi học đại học nên nếu phải ly hôn, anh không đề cập về vấn đề nuôi dưỡng con chung.
Về tài sản chung: Quá trình chung sống, anh và chị L có tạo dựng được khối tài sản chung nhưng đến nay hầu như không còn. Nếu phải ly hôn, anh và chị L tự thỏa thuận phân chia, không yêu cầu Tòa án kê khai và giải quyết.
Về công nợ chung: Không có.
Tòa án nhân dân thành phố L đã tiến hành xác minh tại thôn T2, xã N, thành phố L và khu T3, phường B, thành phố L thể hiện: Quá trình sinh sống tại địa phương, vợ chồng chị L, anh T1 có xảy ra mâu thuẫn, lục đục trong tình cảm vợ chồng, nguyên nhân là do ghen tuông dẫn đến mất trật tự tại địa bản dân cư. Chính quyền địa phương đã nhiều lần hòa giải cho vợ chồng chị L, anh T1 nhưng không thành nên đề nghị Tòa án giải quyết vụ án ly hôn theo quy định của pháp luật.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố L tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:
- Về thủ tục tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký đã thực hiện đúng các thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; bị đơn vắng mặt trong hầu hết khoảng thời gian giải quyết vụ án và không ký, điểm chỉ vào các văn bản, giấy tờ do Tòa án tiến hành lập là không chấp hành các quy định của pháp luật, chưa thực hiện đúng nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70 và Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Về nội dung: Căn cứ các tài liệu chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa; Căn cứ Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình, xét thấy có đủ cơ sở chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị Bàn Thị L, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, quyết định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Chị Bàn Thị L yêu cầu xin ly hôn với anh Trương Văn T1, anh T1 có địa chỉ cư trú trên địa bàn thành phố L nên Tòa án nhân dân thành phố L thụ lý giải quyết với quan hệ pháp luật “Ly hôn” là đúng quy định tại các Điều 28, 35, 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn anh Trương Văn T1 được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng đều vắng mặt không có lý do, sau khi ban hành Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án nhân dân thành phố L đã tống đạt hợp lệ cho anh T1. Tại phiên tòa ngày 29/9/2021, anh T1 có mặt nhưng trước đó, chị L do bận công tác nên đã có đơn xin hoãn phiên tòa. Tòa án tiếp tục tống đạt hợp lệ các Quyết định hoãn phiên tòa ngày 29/9/2021, ngày 13/10/2021 cho anh T1 nhưng tại các phiên tòa sau đó anh T1 đều vắng mặt không có lý do và cũng không có người đại diện tham gia tại phiên tòa nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử theo quy định tại Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về quan hệ hôn nhân giữa chị Bàn Thị L và anh Trương Văn T1 là hợp pháp, được Ủy ban nhân dân thị trấn T3 huyện B (nay là phường B, thành phố L), tỉnh Quảng Ninh cấp Giấy chứng nhận kết hôn năm 2002. Quá trình chung sống, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, theo chị L là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không có tiếng nói chung, không còn tình cảm dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi nhau, anh T1 hay uống rượu say xỉn và chửi bới xúc phạm chị và gia đình chị, còn theo quan điểm của anh T1 là do chị L mải mê ca hát, văn nghệ không quan tâm đến anh và gia đình. Lời khai của chị L và anh T1 về nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn phù hợp với kết quả xác minh, thu thập chứng cứ về tình trạng quan hệ hôn nhân của chị L và anh T1 tại nơi chị L, anh T1 chung sống nên chị L đề nghị Tòa án giải quyết cho ly hôn là có cơ sở chấp nhận. Căn cứ vào quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử xét thấy tình trạng hôn nhân giữa chị L và anh T1 đã phát sinh mâu thuẫn trầm trọng, kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Bàn Thị L đối với anh Trương Văn T1.
[3] Về con chung: Chị L và anh T1 có 01 con chung là Trương Tâm P – sinh ngày xx/x/20xx. Quá trình khởi kiện, chị L có quan điểm khi ly hôn, chị đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng con chung cho đến khi đủ 18 tuổi và không yêu cầu anh T1 phải cấp dưỡng cho con. Thời điểm hiện nay, con chung đã đủ 18 tuổi và không có nhược điểm về thể chất, tâm thần nên chị L không đề cập về vấn đề nuôi dưỡng con chung. Anh T1 cũng có quan điểm con chung đã thành niên, không có nhược điểm về thể chất, tâm thần và cũng chuẩn bị đi học đại học nên nếu phải ly hôn, anh không đề cập về vấn đề nuôi dưỡng con chung. Do đó, Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết về vấn đề nuôi dưỡng con chung của chị L và anh T1.
[4] Về tài sản chung: Chị L và anh T1 đều có quan điểm không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung nên Hội đồng xét xử không xét. Về công nợ chung: Không có.
[5] Về án phí: Chị Bàn Thị L phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[6] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; Điều 227; Điều 228; Điều 271; khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Áp dụng: Khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Bàn Thị L được ly hôn với anh Trương Văn T1.
2. Về án phí: Chị Bàn Thị L phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm. Số tiền này được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) chị L đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: 000xxxx ngày xx tháng xx năm 20xx của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố L, tỉnh Quảng Ninh. Chị Bàn Thị L đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.
3. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn chị Bàn Thị L có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị đơn anh Trương Văn T1 có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết tại nơi cư trú
Bản án về ly hôn số 102/2021/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 102/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Hạ Long - Quảng Ninh |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 27/10/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về