Bản án về ly hôn số 09/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CƯM’GAR, TỈNH ĐĂK LĂK

BẢN ÁN 09/2022/HNGĐ-ST NGÀY 05/05/2022 VỀ LY HÔN

Ngày 05 tháng 5 năm 2022 tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện CưM’gar, tỉnh Đăk Lăk xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số: 380/2021/TLST-HNGĐ ngày 27 tháng 12 năm 2021 về việc “Kiện ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 07/2022/QĐXX-HNGĐ ngày 30/3/2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 08/2022/QĐST – HNGĐ ngày 18/4/2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Y W Niê; sinh năm 1989 (có mặt) Địa chỉ: Buôn M R, xã EH, huyện KN, tỉnh Đăk Lăk

- Bị đơn: Chị H L Niê; sinh năm 1996 (vắng mặt) Địa chỉ: Buôn H, xã E Đ, huyện CM, tỉnh Đăk Lăk

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ly hôn, bản tự khai nguyên đơn anh Y W Niê trình bày:

Tôi và chị H L Niê chung sống với nhau từ năm 2015 nhưng đến ngày 17/3/2017 mới đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Ea Đrơng, huyện Cư Mgar, tỉnh Đăk Lăk trên cơ sở tự nguyện. Trong thời gian chúng sống vợ chồng tôi thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, không hạnh phúc, không hợp nhau dẫn đến vợ chồng bất đồng quan điểm.

Chúng tôi không tìn được tiếng nói chung để sống với nhau, tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn được nên chúng tôi đã ly thân từ năm 2017 đến nay, tôi đã về sinh sống tại Buôn M R, xã E H, huyện KN, tỉnh Đăk Lăk với bố mẹ. Nay tình cảm giữa tôi và chị H L Niê không còn nên tôi làm đơn khởi kiện đề nghị Tòa án nhân dân huyện Cư Mgar giải quyết cho được ly hôn với chị H L Niê.

Về con chung: Chúng tôi có 01 con chung là cháu Y Q Niê, sinh ngày 13/10/2016.

Hiện nay chị H L Niê đang trực tiếp nuôi dưỡng và phát triển bình thương nên tôi có nguyện vọng tiếp tục giao cháu Y Q Niê cho chị H L Niê trực tiếp nuôi dưỡng đến khi cháu Y Q Niê đủ 18 tuổi và tôi không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung và nợ chung: Tôi không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong quá trình giải quyết Tòa án nhân dân huyện Cư Mgar đã triệu tập chị H L Niê để giao thông báo thụ lý vụ án, làm bản tự khai, thông báo về phiên họp công khai chứng cứ và hòa giải nhưng chị H L Niê vẫn vắng mặt không có lý do. Qua xác minh tại chính quyền địa phương vào ngày 31/12/2021 được biết chị H L Niê có hộ khẩu thường trú tại địa phương nhưng chị H L Niê thường xuyên vắng mặt ở nhà vào giờ làm việc hành chính.

Tại phiên tòa, anh Y W Niê vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án và ý kiến về việc giải quyết vụ án:

Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án:

- Đối với Thẩm Phán: đã thực đầy đủ các quy đinh của Bộ luật tố tụng dân sự và thực hiện đúng thời hạn xét xử.

- Đối với Hội đồng xét xử và thư ký tại phiên tòa: Đã thực hiện đầy đủ, đúng quy định của Bộ Luật tố tụng dân sự.

- Đối với đương sự:

Nguyên đơn thực hiện đúng theo quy định tại các Điều 70, Điều 71 Bộ luật tố tụng dân sự.

Bị đơn Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhưng bị đơn không chấp hành theo đúng quy định của pháp luật tại các Điều 70, Điều 72 Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình đề nghị: Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Y W Niê; Tuyên bố anh Y W Niê được ly hôn với chị H L Niê. Giao cháu Y Q Niê, sinh ngày 13/10/2016 cho chị H L Niê trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi cháu Y Q Niê đủ 18 tuổi. anh Y W Niê không phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung và nợ chung: Anh Y W Niê không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

Về án phí: Đương sự phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền và quan hệ pháp luật:

Anh Y W Niê và chị H L Niê có đăng ký kết hôn với nhau vào ngày 17/3/2017 tại Ủy ban nhân dân xã Ea Đrơng, huyện Cư Mgar, tỉnh Đăk Lăk. Nay anh Y W Niê yêu cầu được ly hôn với chị H L Niê nên quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án là tranh chấp ly hôn và nuôi con chung.

Chị H L Niê có hộ khẩu thường trú tại thôn Buôn Hô, xã Ea Đrơng, huyện Cư Mgar, tỉnh Đăk Lăk. Do đó, căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyên Cư Mgar nên được xem xét, giải quyết theo quy định của pháp luật.

[2] Về thủ tục tố tụng: Tòa án đã triệu tập hợp lệ lần thứ 2 nhưng chị H L Niê vẫn vắng mặt tại phiên tòa. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự để xét xử vắng mặt.

[3] Về nội dung:

[3.1] Về quan hệ hôn nhân: Anh Y W Niê và chị H L Niê có đăng ký kết hôn với nhau vào ngày 17/3/2017 tại Ủy ban nhân dân xã Ea Đrơng, huyện Cư Mgar, tỉnh Đăk Lăk, đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận và bảo vệ. Quá trình chung sống giữa anh Y W Niê và chị H L Niê thường xuyên nảy sinh mâu thuẫn, bất đồng quan điểm sống, đời sống chung không hạnh phúc. Anh Y W Niê và chị H L Niê đã không chung sống với nhau từ năm 2017 đến nay. Nay anh Y W Niê yêu cầu được ly hôn với chị H L Niê, xét yêu cầu của anh Y W Niê là phù hợp vì hiện nay tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, Hội đồng xét xử cần xem xét yêu cầu giải quyết ly hôn của anh Y W Niê.

[3.2] Về con chung: Anh Y W Niê và chị H L Niê có 01 con chung là cháu Y Q Niê, sinh ngày 13/10/2016, hiện nay cháu Y Q Niê đang được chị H L Niê trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Ngày 12/8/2017 giữa anh Y W Niê và chị H L Niê đã thống nhất thỏa thuận sau khi không chung sống với nhau thì giao cháu Y Q Niê, sinh ngày 13/10/2016 cho chị H L Niê trực tiếp nuôi dưỡng và anh Y W Niê không phải cấp dưỡng nuôi con. Ngày 13/4/3022 Tòa án nhân dân huyện Cư Mgar đã tiến hành xác minh được biết cháu Y Q Niê hiện nay đang ở với mẹ là H L Niê tại Buôn Hô, xã Ea Đrơng, huyện Cư Mgar, tỉnh Đăk Lăk, hiện nay cháu Y Quân Niê đang phát triển bình thường về thể chất và tinh thần, cháu Y Q Niê đang được chị H L Niê chăm sóc và đảm bảo việc học hành vui chơi. Do đo, Hội đồng xét xử xét thấy xét việc tiếp tục giao cháu Y Q Niê, sinh ngày 13/10/2016 cho chị H L Niê chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi cháu Y Q Niê đủ 18 tuổi là phù hợp.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Anh Y W Niê không yêu cầu phải cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không đặt ra để giải quyết.

[3.3] Về tài sản chung và nợ chung: Anh Y W Niê không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[4] Về án phí: Anh Y W Niê phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 266, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự.

Áp dụng vào các Điều 9, khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình.

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/UBTVQH10 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Y W Niê Về quan hệ hôn nhân: Anh Y W Niê được ly hôn với chị H L Niê Về con chung: Giao 01 con chung là cháu Y Q Niê, sinh ngày 13/10/2016 cho chị H L Niê trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi cháu Y Q Niê đủ 18 tuổi.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Anh Y W Niê không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Anh Y W Niê được quyền đi lại thăm nom, chăm sóc con chung, không ai có quyền ngăn cản.

Vì lợi ích của con chưa thành niên, theo yêu cầu của một hoặc hai bên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, mức cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Anh Y W Niê không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Về án phí hôn nhân và gia đình:

Anh Y W Niê phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm được khấu trừ vào số tiền 300.000đ tạm ứng án phí mà anh Y W Niê đã nộp theo biên lai thu số 60AA/2021/0007862 ngày 24/12/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cư M’gar.

Nguyên đơn được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị đơn vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

154
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 09/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:09/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cư M'gar - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 05/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về