Bản án về ly hôn số 08/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BA ĐỒN, TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 08/2022/HNGĐ-ST NGÀY 20/05/2022 VỀ LY HÔN

Ngày 20 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Ba Đồn, tỉnh Quảng Bình, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 19/2022/TLST-HNGĐ ngày 14 tháng 3 năm 2022 về việc "Ly hôn", theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 05/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 29 tháng 4 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn:Anh Trương Quang V, sinh năm 1989.

Nơi cư trú: Thôn Thanh T, xã Quảng H, thị xã Ba Đ, tỉnh Quảng Bình. (Anh Trương Quang V có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

- Bị đơn:Chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1992.

Nơi cư trú: Thôn Hợp H, xã Quảng H, thị xã Ba Đ, tỉnh Quảng Bình. (Chị Nguyễn Thị T có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 01/02/2022, bản tự khai và tại đơn đề nghị xét xử vắng mặt thì nguyên đơn, anh Trương Quang V trình bày:

Anh và chị Nguyễn Thị T lấy nhau tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Quảng H, huyện Quảng T, tỉnh Quảng Bình (Nay là Uỷ ban nhân dân xã Quảng H, thị xã Ba Đ, tỉnh Quảng Bình) ngày 19/02/2010. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân trong quá trình vợ chồng chung sống thường hay xảy ra cãi vã, hai vợ chồng không có tiếng nói chung, chị T bỏ về nhà ngoại sinh sống. Vì vậy, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, vợ chồng sống ly thân từ tháng 8/2018 cho đến nay, không ai quan tâm đến ai. Nay anh thấy mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị T.

Về con chung: Quá trình chung sống anh Trương Quang V và chị Nguyễn Thị T có 01 con chung là Trương Thị Tuyết h, sinh ngày 03/9/2010. Sau ly hôn anh V giao con chung cho chị T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và anh V cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 1.000.000 đồng đến khi con trưởng thành.

Về tài sản chung: Không có. Hiện tại vợ chồng anh không nợ ai và không ai nợ vợ chồng anh nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại đơn đề nghị xét xử vắng mặt, chị Nguyễn Thị T trình bày: chị và anh Trương Quang V có quá trình tìm hiểu và đi đến kết hôn là hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn đúng như lời trình bày của anh V. Quá trình vợ chồng chung sống hạnh phúc được một thời gian thì xảy ra mâu thuẫn, do tính tình không hợp, không cùng quan điểm sống, không ai quan tâm đến ai. Vợ chồng sống ly thân đã khá lâu, chị về nhà ngoại sinh sống và đi làm công nhân ở tỉnh Bình Dương. Nay anh V khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn thì chị cũng đồng ý.

Về con chung: Quá trình chung sống chij và anh Trương Quang V và có 01 con chung là Trương Thị Tuyết A, sinh ngày 03/9/2010. Sau ly hôn chị có nguyện vọng tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng và yêu cầu anh Vũ cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 1.000.000 đồng đến khi con trưởng thành(18 tuổi).

Về tài sản chung: Không có. Hiện tại vợ chồng anh không nợ ai và không ai nợ vợ chồng chị nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Nguyên đơn anh Trương Quang V và bị đơn chị Nguyễn Thị T có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Vì vậy, căn cứ khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Anh Trương Quang V và chị Nguyễn Thị T yêu nhau tự nguyện đăng ký kết hôn ngày 19/02/2010 tại UBND xã Quảng H, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình (Nay là xã Quảng Hòa, thị xã Ba Đồn, tỉnh Quảng Bình) là hôn nhân hợp pháp. Sau khi lấy nhau, thời gian đầu vợ chồng hạnh phúc nhưng dần phát sinh mâu thuẩn, nguyên nhân chính là do tính tình không hợp, vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi vã, hai vợ chồng không cùng quan điểm sống. Vợ chồng sống ly thân từ tháng 8/2018 cho đến nay, mỗi người sống một nơi, không ai quan tâm đến ai. Anh V làm đơn xin ly hôn thì chị T cũng đồng ý. Xét trình bày của các bên đương sự, Hội đồng xét xử thấy rằng tình cảm vợ chồng đã mâu thuẫn trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được,vì vậy, cần công nhận thuận tình ly hôn giữa anh V và chị Tt là có căn cứ và phù hợp với Điều 55 Luật hôn nhân và gia đình.

[3] Về quan hệ con chung: Quá trình chung sống anh Trương Quang V và chị Nguyễn Thị T có 01 con chung là Trương Thị Tuyết A, sinh ngày 03/9/2010. Sau khi ly hôn chị T và anh V đều có nguyện vọng giao con chung cho chị T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, anh Vũ đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000 đồng đến khi con chung trưởng thành(18 tuổi). Sau khi thảo luận và nghị án Hội đồng xét xử xét thấy nguyện vọng của hai bên là phù hợp khoản 1, khoản 2 Điều 81; khoản 1, khoản 3 Điều 82; Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình nên cần được chấp nhận.

[4] Về tài sản chung: Anh Trương Quang V và chị Nguyễn Thị T không có tài sản chung, không yêu cầu giải quyết. Nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Anh Trương Quang V nộp tiền án phí ly hôn và án phí cấp dưỡng nuôi con theo định kỳ, để sung vào công quỹ nhà nước

[6] Về quyền kháng cáo: Các đương sực óquyền kháng cáo theo luật định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 5; Điều 147; Khoản 1 Điều 228; Điều 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Các điều 51, 55, 57, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

1. Xét xử vắng mặt anh Trương Quang V và chị Nguyễn Thị T.

2. Công nhận thuận tình ly hôn giữa anh Trương Quang V và chị Nguyễn Thị T.

3. Về quan hệ con chung: Giao con chung Trương Thị Tuyết A, sinh ngày 03/9/2010 cho chị Nguyễn Thị T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Anh Trương Quang V cấp dưỡng tiền nuôi con chung mỗi tháng 1.000.000 đồng (Một triệu đồng) kể từ tháng 6/2022 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi. Anh Trương Quang V được quyền thăm nom chăm sóc con chung không ai được cản trở.

4. Về quan hệ tài sản: Không xem xét.

5. Về án phí ly hôn sơ thẩm: Anh Trương Quang V phải nộp 300.000 đồng tiền án phí ly hôn và 150.000 đồng tiền án phí cấp dưỡng nuôi con theo định kỳ,để sung vào công quỹ Nhà nước, nhưng trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng anh đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Ba Đồn, tỉnh Quảng Bình theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0003340 ngày 14 tháng 3 năm 2022. Anh Trương Quang Vũ phải nộp thêm 150.000 đồng tiền án phí.

Trường hợp Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Anh Trương Quang V và chị Nguyễn Thị T được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án do Tòa án tống đạt hoặc kể từ ngày bản sao bản án được niêm yết tại trụ sở UBND xã, phường nơi anh, chị thường trú./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

87
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 08/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:08/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Ba Đồn - Quảng Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về