Bản án về ly hôn số 08/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN BÌNH, TỈNH YÊN BÁI

BẢN ÁN 08/2021/HNGĐ-ST NGÀY 05/01/2021 VỀ LY HÔN

Ngày 05 tháng 01 năm 2021, tại Tòa án nhân dân huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái mở phiên tòa xét xử sơ thẩm, công khai vụ án Hôn nhân và Gia đình thụ lý số 219/2020/TLST - HNGĐ ngày 02 tháng 10 năm 2020 về việc " L y hôn " theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 47/2020/QĐXX ST - HNGĐ ngày 06 tháng 11 năm 2020 ; Thông báo mở lại phiên tòa số 36/TB-TA ngày 14 tháng 12 năm 2020 , giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Y, sinh năm 1965;

- Bị đơn: Ông Nguyễn Quang L, sinh năm 1962;

Các đương sự đều trú tại Tổ 13, thị trấn Y B, huyện Y B, tỉnh Yên Bái;

( Bà Nguyễn Thị Y có đơn xin xét xử vắng mặt; ông Nguyễn Quang L được triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ hai vẫn cố tình vắng mặt, không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, bản tự khai đề ngày 21 tháng 9 năm 2020, quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Y trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Tôi kết hôn với ông Vũ Quang Long trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn ngày 01 tháng 9 năm 1986 tại Ủy ban nhân dân thị trấn T B, huyện Y B, tỉnh Yên Bái. Quá trình chung sống vợ chồng hạnh phúc được 10 năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do ông Long cờ bạc, chơi bời, không tu chí làm ăn. Vợ chồng mỗi người một vốn. Ngoài ra ông Long còn chửi bới, đánh đập tôi. Mâu thuẫn đã được chính quyền địa phương và gia đình hòa giải nhưng không có kết quả. Do mâu thuẫn trầm trọng, chúng tôi đã sống ly thân từ năm 2015 đến nay. Nay tôi xác định tình cảm vợ chồng đã hết. Tôi đề nghị Tòa án giải quyết cho tôi được ly hôn với ông Nguyễn Quang L.

Về con chung: Chúng tôi có hai con chung là Nguyễn Quang G sinh năm 1987 và Nguyễn Văn B sinh năm 1990; các con đều đã trưởng thành, tôi không đề nghị giải quyết việc nuôi con chung.

Về tài sản chung, nợ chung: Tôi không đề nghị Tòa án giải quyết.

Ông Nguyễn Quang L được triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt, không có lý do.

Tại phiên tòa: Kiểm sát viên phát biểu về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Thư ký, các thành viên khác trong Hội đồng xét xử và đương sự trong quá trình chuẩn bị xét xử đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Thủ tục tố tụng tại phiên tòa đã đảm bảo. Về nội dung: Kiểm sát viên đề nghị: Áp dụng khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30 - 12 - 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Chấp nhận yêu cầu của bà Nguyễn Thị Y về việc ly hôn và tuyên án phí theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Bà Nguyễn Thị Y có đơn xin xét xử vắng mặt, ông Nguyễn Quang L được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai vẫn vắng mặt không có lý do nên Tòa án xét xử vắng mặt tất cả các đương sự theo Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Xét yêu cầu của bà Nguyễn Thị Y:

Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Y trình bày có đăng ký kết hôn trên tinh thần tự nguyện với ông Nguyễn Quang L vào năm 1986 tại Ủy ban nhân dân thị trấn Thác Bà, huyện Yên Bình nhưng do chuyển nhà nhiều lần nên bị mất Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn; UBND thị trấn Thác Bà xác nhận không còn lưu trữ được sổ đăng ký kết hôn từ 1990 trở về trước; tuy nhiên tổ dân phố số 2 thị trấn Thác Bà, huyện Yên Bình và UBND thị trấn Thác Bà, huyện Yên Bình (nơi ông Long, bà Yên cư trú cũ) có xác nhận bà Nguyễn Thị Y và ông Nguyễn Quang L là vợ chồng đã chung sống với nhau từ năm 1986 nên hôn nhân giữa bà Yến và ông Long là hôn nhân hợp pháp. Tuy nhiên do mâu thuẫn vợ chồng, hai bên đã sống ly thân và không còn quan tâm đến nhau nữa, nay bà Yến xác định tình cảm vợ chồng không còn, ông Long được triệu tập hợp lệ để hòa giải nhưng vẫn cố tình vắng mặt. Xét thấy bà Nguyễn Thị Y và ông Nguyễn Quang L không còn quan tâm đến nhau, đời sống chung không có, mục đích của hôn nhân không đạt được, vì vậy căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình, chấp nhận yêu cầu của bà Nguyễn Thị Y về việc ly hôn ông Nguyễn Quang L.

Về con chung: Các con của bà Y, ông L đã trưởng thành nên bà Yến không yêu cầu giải quyết, do đó Hội đồng xét xử không xét;

Về tài sản chung, nợ chung: Bà Y không yêu cầu giải quyết, ông Long không có ý kiến nên không xét.

[3] Về án phí: Bà Nguyễn Thị Y phải chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.

[4] Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và Gia đình; khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30 -12- 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Y được ly hôn ông Nguyễn Quang L.

2. Về án phí: Bà Nguyễn Thị Y phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí bà Nguyễn Thị Y đã nộp là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2017/0006859 ngày 02 tháng 10 năm 2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái. Bà Nguyễn Thị Y đã nộp đủ án phí.

Án xử sơ thẩm công khai, các đương sự đều vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc kể từ ngày Bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

146
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 08/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:08/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Bình - Yên Bái
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 05/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về