Bản án về ly hôn số 02/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH B

BẢN ÁN 02/2022/HNGĐ-ST NGÀY 24/01/2022 VỀ LY HÔN

Trong ngày 24 tháng 01 năm 2022 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố B xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 422/2021/TLST-HNGĐ ngày 22 tháng 12 năm 2021 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 07 tháng 01 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Lê Thị T, sinh năm 1973 (Xin xét xử vắng mặt) Địa chỉ: Xóm Tiền Phong, xã Nội Hoàng, huyện Yên Dũng, tỉnh B.

2. Bị đơn: Ông Đào Văn V, sinh năm 1948 (Xin xét xử vắng mặt) Địa chỉ: Xóm Đông, thôn Song Khê 1, xã Song Khê, thành phố B, tỉnh B.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 16/12/2021 và các lời khai tại Toà án, nguyên đơn – bà Lê Thị T trình bày:

Về quan hệ vợ chồng: Bà và ông Đào Văn V kết hôn với nhau ngày 07/03/2009 trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Song Khê, thành phố B, tỉnh B. Trước khi cưới cả hai được tự nguyện tìm hiểu và được hai bên gia đình tổ chức cưới theo phong tục địa phương. Sau khi cưới, bà về chung sống cùng gia đình ông V tại xóm Đông, thôn Song Khê 1, xã Song Khê, thành phố B, tỉnh B. Vợ chồng chung sống hạnh phúc được khoảng 10 ngày thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không hợp nhau. Bà đã về nhà bố mẹ đẻ tại xóm Tiền Phong, xã Nội Hoàng, huyện Yên Dũng, tỉnh B sinh sống. Vợ chồng sống ly thân từ đó cho đến nay, không còn quan hệ gì về tình cảm lẫn kinh tế. Nay bà xác định tình cảm vợ chồng không còn nên đề nghị Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn ông V. Do vợ chồng sống ly thân đã lâu, không có khả năng đoàn tụ nên bà đề nghị Tòa án không tiến hành hòa giải mà giải quyết cho bà được ly hôn ông V trong thời gian sớm nhất để ổn định cuộc sống.

Về con chung, tài sản, công nợ: Bà và ông V không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại biên bản lấy lời khai, bị đơn ông Đào Văn V trình bày:

Về quan hệ vợ chồng: Ông và bà Lê Thị T kết hôn với nhau ngày 07/3/2009 trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Song Khê, thành phố B, tỉnh B. Trước khi cưới vợ chồng được tìm hiểu và được hai bên gia đình tổ chức cưới theo phong tục địa phương. Sau ngày cưới bà T có về chung sống cùng gia đình ông tại xóm Đông, thôn Song Khê 1, xã Song Khê, thành phố B, tỉnh B. Vợ chồng chung sống với nhau được 7 ngày thì bà T bỏ về nhà bố mẹ đẻ tại xóm Tiền Phong, xã Nội Hoàng, huyện Yên Dũng, tỉnh B ở và vợ chồng sống ly thân từ đó cho đến nay, không ai quan tâm tới ai. Về mâu thuẫn vợ chồng ông xác định không có mâu thuẫn gì nhưng ông cũng không hiểu sao bà T lại tự ý bỏ về nhà bố mẹ đẻ. Nay ông xác định tình cảm vợ chồng không còn, không có khả năng đoàn tụ nên bà T xin ly hôn thì ông hoàn toàn nhất trí.

Về con chung, tài sản, công nợ: Ông xác định không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại biên bản làm việc ngày 29/12/2021, bà Lê Thị Lan (là mẹ đẻ bà Lê Thị T) cung cấp: Năm 2009, con gái bà là Lê Thị T có kết hôn với ông Đào Văn V, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Song Khê, thành phố B và được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục địa phương. Sau khi kết hôn thì hai vợ chồng về chung sống với nhau tại xóm Đông, thôn Song Khê 1, xã Song Khê, thành phố B, tỉnh B. Nhưng vợ chồng chung sống được gần 10 ngày thì con gái bà là Lê Thị T bỏ về nhà bà ở, vợ chồng sống ly thân từ đó cho đến nay. Còn về mâu thuẫn giữa hai vợ chồng thế nào thì bà không nắm được. Nay con gái bà xin ly hôn ông V thì bà đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tại biên bản làm việc ngày 22/12/2021, chị Đào Thị Vượng (là con gái ông Đào Văn V) cung cấp: Năm 2009, bố chị là ông Đào Văn V kết hôn với bà Lê Thị T và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Song Khê, thành phố B, được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục địa phương. Sau khi kết hôn, bà T về chung sống cùng với bố chị tại xóm Đông, thôn Song Khê 1, xã Song Khê, thành phố B, tỉnh B. Bố chị và bà T chung sống với nhau được 7 ngày thì không hiểu tại sao bà T lại bỏ về nhà bố mẹ đẻ và sống ly thân với bố chị từ đó cho đến nay. Từ khi bà T bỏ về nhà bố mẹ đẻ thì gia đình chị vẫn xuống nói chuyện nhưng bà T không về. Nay bà T xin ly hôn bố chị là ông Đào Văn V thì đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tại phiên toà hôm nay, bà Lê Thị T, ông Đào Văn V vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt.

Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân thành phố B phát biểu ý kiến về việc tuân thủ pháp luật trong suốt quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành phát luật của nguyên đơn kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng quy định của pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; khoản 1 Điều 228; Điều 238; Điều 271; Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 51; Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình; Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án, xử:

Về quan hệ vợ chồng: Bà Lê Thị T được ly hôn ông Đào Văn V.

Về án phí: Bà Lê Thị T phải chịu 300.000 đồng tiền án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu hồ sơ và thẩm tra các chứng cứ tại phiên toà, Hội đồng xét xử xét thấy:

[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết vụ án: Bà Lê Thị T xin ly hôn ông Đào Văn V nên đây là quan hệ pháp luật về tranh chấp ly hôn. Bị đơn ông Đào Văn V có địa chỉ tại xóm Đông, thôn Song Khê 1, xã Song Khê, thành phố B, tỉnh B nên theo quy định tại Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35;

điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân thành phố B, tỉnh B.

[2] Về sự vắng mặt của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ vào khoản 1 Điều 228; Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục vắng mặt đối với nguyên đơn, bị đơn.

[3] Về quan hệ vợ chồng: Bà Lê Thị T và ông Đào Văn V đều trình bày ông bà kết hôn trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Song Khê, thành phố B, tỉnh B. Bà T cũng đã cung cấp được bản sao Giấy đăng ký kết hôn. Như vậy, quan hệ hôn nhân của bà T, ông V là quan hệ hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ. Nay bà T xin ly hôn, ông V xác định vợ chồng sống ly thân đã lâu, không còn tình cảm nên đồng ý ly hôn. Việc đồng ý ly hôn của ông V là hoàn toàn tự nguyện, không bị ép buộc gì nên cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của bà T.

[4] Về con chung, tài sản, công nợ: Bà T, ông V không yêu cầu Toà án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết trong vụ án này.

[5] Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án, bà Lê Thị T phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Ngoài ra, cần áp dụng các Điều 271; 273 Bộ luật Tố tụng dân sự tuyên quyền kháng cáo cho các đương sự.

Vì các lẽ trên, Căn cứ vào:

QUYẾT ĐỊNH

- Các Điều 51; Điều 56; Điều 57 Luật Hôn nhân và gia đình;

- Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; Điều 228; Điều 238; Điều 271; Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án;

Xử:

1. Về quan hệ vợ chồng: Bà Lê Thị T được ly hôn ông Đào Văn V.

2. Về án phí: Bà Lê Thị T phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo biên lai số 0001291 ngày 22/12/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B. Bà T đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 - Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6; 7; 7a; 7b và 9 - Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 - Luật thi hành án dân sự.

3.Về quyền kháng cáo: Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

146
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 02/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:02/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bạc Liêu - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về