Bản án về ly hôn, nuôi con chung khi ly hôn số 26/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ T, TỈNH L

 BẢN ÁN 26/2021/HNGĐ-ST NGÀY 18/05/2021 VỀ LY HÔN, NUÔI CON CHUNG KHI LY HÔN 

Ngày 18 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố T, xét  xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự “Ly hôn, nuôi con chung khi ly hôn”, thụ lý  số 22/2021/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 01 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 27/2021/QĐST-HNGĐ ngày 12 tháng 4 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Tr. Th. Tr. L  Sinh năm: 1989  Địa chỉ: 11/105 Đường N Phường B thành phố T tỉnh L.

- Bị đơn:  Ông HHC  Sinh năm: 1989  Địa chỉ: 11/105 Đường N Phường B thành phố T tỉnh L.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và quá trình tố tụng, bà Tr. Th. Tr. L trình bày: Sau  khoảng gần hai năm tìm hiểu, năm 2007, bà và ông C làm lễ cưới. Đến năm  2010, đăng ký kết hôn. Thời gian đầu, vợ chồng chung sồng tương đối ổn.

Nhưng sau đó phát sinh mâu thuẫn, do ông C không quan tâm đến gia đình. Khi bà khuyên thì ông C to tiếng với bà. Thời gian đầu, vì thương con, bà cố gắng chịu đựng nhưng ông C ngày càng vô tâm, không cùng lo cho kinh tế gia đình, thậm chí có hành vi bạo lực với bà. Từ tháng 9 năm 2020, bà và ông C không chung sống cùng nhau nữa. Không còn tình cảm vợ chồng và không thể kéo dài tình trạng hôn nhân hiện tại, bà yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông C.

Về con chung, bà và ông C có một người con chung, tên là HTVT, sinh ngày 25 tháng 8 năm 2008. Con chung hiện đang sống cùng với ông C. Vì hoàn cảnh kinh tế và điều kiện chỗ ở nên bà không thể trực tiếp nuôi con chung. Do vậy, bà đề nghị ông C trực tiếp nuôi con chung. Hiện tại, bà cũng không có khả năng cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung và nợ chung: không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ông HHC đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn không tham gia tố tụng nên ngày 05 tháng 4 năm 2021, Tòa án đã lập Biên bản không tiến hành hòa giải được và đưa vụ án ra xét xử theo quy định.

Kiểm sát viên phát biểu quan điểm về việc chấp hành pháp luật của những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng trong quá trình tố tụng. Về nội dung, đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và giải quyết các vấn đề khác theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Ông HHC và bà Tr. Th. Tr. L là vợ chồng. Trong quá trình chung sống, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do ông C không quan tâm đến gia đình, có hành vi bạo lực gia đình dẫn đến vợ chồng mâu thuẫn và không chung sống cùng nhau, từ tháng 9 năm 2020. Tình cảm vợ chồng không còn và không thể kéo dài tình trạng hôn nhân hiện tại, bà Tr. Th. Tr. L khởi kiện, yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông HHC. Theo quy định tại Điều 28 và Điều  35 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân thành phố Tthụ lý và giải quyết vụ  án.

[2] Tòa án nhân dân thành phố Ttỉnh L đã triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng bị đơn vẫn không tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Do đó, ngày 05 tháng 4 năm 2021, Tòa án nhân dân thành phố Tđã lập Biên bản về việc không kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ được và Biên bản không tiến hành hòa giải được. Tòa án nhân dân thành phố Tđưa vụ án ra xét xử, ông HHC vắng mặt lần thứ nhất tại phiên tòa ngày 28 tháng 4 năm 2021 và ngày 18 tháng 5 năm 2021, ông C cũng không tham gia phiên tòa; Bà Tr. Th. Tr. L có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Do  vậy, Tòa án nhân dân thành phố Txét xử vắng mặt tất cả các đương sự theo quy định tại Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Bà L và ông C xác lập quan hệ hôn nhân vào năm 2010 nên áp dụng các quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết về nội dung, theo quy định tại Điều 131 Luật hôn nhân và gia đình.

[4] Ông HHC đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng không tham gia tố tụng, thể hiện thái độ không quan tâm, mặc kệ hậu quả. Đồng thời, ông C cũng không có bất cứ hành vi nào để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Do vậy, khó có khả năng đoàn tụ. Tình trạng hôn nhân không hạnh phúc. Cho nên, có căn cứ chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

[5] Về con chung, nguyên đơn và bị đơn có một người con chung, tên là tên là HTVT, sinh ngày 25 tháng 8 năm 2008. Bà L không có nguyện vọng trực tiếp nuôi con chung sau khi ly hôn do hoàn cảnh hiện tại của bà không đảm bảo lợi ích của con, thêm nữa, hiện nay, con chung đang sống ổn định với cha và Huỳnh Trần Văn Tân cũng có nguyện vọng được sống cùng cha. Do đó, Tòa án chấp nhận để ông C trực tiếp nuôi con chung. Về nghĩa vụ cấp dưỡng, do bà L cho rằng bà không có khả năng cấp dưỡng nuôi con và do ông C không tham gia tố tụng nên Tòa án không xác định được yêu cầu của ông C về việc cấp dưỡng nuôi con. Do vậy, ông C có quyền khởi kiện yêu cầu cấp dưỡng nuôi con theo quy định; Bà Tr. Th. Tr. L có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung; không ai được cản trở bà L thực hiện quyền này; Vì lợi ích của con, một hoặc hai bên đương sự có quyền yêu cầu Tòa án quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con; yêu cầu cấp dưỡng nuôi con theo quy định.

[6] Về tài sản chung và nợ chung, do không có yêu cầu nên Tòa án không  xem xét.

[7] Về án phí: Bà Tr. Th. Tr. L chịu án phí sơ thẩm theo quy định tại Điều  147 Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 89, Điều 91, Điều 92, Điều 93 và Điều 94 Luật Hôn nhân và Gia đình (năm 2000), Điều 131 Luật Hôn nhân và Gia đình; Điều 238, Điều 272 và khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Tr. Th. Tr. L đối với ông HHC.

Về con chung: Sau khi ly hôn, ông HHC là người trực tiếp nuôi con chung, tên là HTVT, sinh ngày 25 tháng 8 năm 2008; Bà Tr. Th. Tr. L không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Bà Tr. Th. Tr. L có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung; không ai được cản trở bà L thực hiện quyền này.

Vì lợi ích của con, một hoặc hai bên đương sự có quyền yêu cầu Tòa án quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con; yêu cầu cấp dưỡng nuôi con theo quy định 

Về án phí: Bà Tr. Th. Tr. L chịu án phí sơ thẩm là 300.000 đồng. Chuyển  300.000 đồng tiền tạm ứng án phí mà bà L đã nộp (theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0005134 ngày 26 tháng 01 năm 2021 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Ttỉnh L) thành án phí sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn Tr. Th. Tr. L, bị đơn HHC vắng mặt tại phiên tòa, các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày Tòa án niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

525
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, nuôi con chung khi ly hôn số 26/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:26/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tân An - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về