Bản án về ly hôn, nuôi con chung số 34/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC HOÀ, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 34/2022/HNGĐ-ST NGÀY 17/02/2022 VỀ LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 17 tháng 02 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 744/2021/TLST-HNGĐ ngày 03 tháng 12 năm 2021 về việc “Ly hôn, nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 03/2022/QĐXXST- HNGĐ ngày 04 tháng 01 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 14/2022/QĐST-HNGĐ ngày 25 tháng 01 năm 2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Trần Thị Ngọc B, sinh năm: 1993.

Địa chỉ: Ấp 4, xã Đ, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.

2. Bị đơn: Anh Hồ Quốc T, sinh năm: 1984.

Địa chỉ: Ấp 4, xã Đ, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.

(Chị B xin vắng mặt; Anh T vắng mặt không lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn ngày 15/11/2021 và những lời khai tiếp theo trong quá trình giải quyết nguyên đơn chị Trần Thị Ngọc B trình bày: Chị Trần Thị Ngọc B và anh Hồ Quốc T chung sống với nhau vào năm 2014, có đăng ký kết hôn tại UBND xã xã Đ, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An ngày 10 tháng 02 năm 2014. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do bất hòa trong cuộc sống, vợ chồng thường xuyên cải vả, cuộc sống chung không phù hợp nên đã ly thân từ tháng 02 năm 2021 đến nay. Nay chị B xét thấy tình cảm vợ chồng không còn khả năng hàn gắn nên xin ly hôn anh T.

Về con chung: Chị B khai, chị B và anh T chung sống có 01 con chung tên Hồ Quốc V, sinh ngày 04 tháng 4 năm 2014. Khi ly hôn, chị B xin được quyền tiếp tục nuôi con chung và không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Chị B khai, không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Chị B khai, không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Đối với anh Hồ Quốc T, đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng anh T không đến Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An làm việc hoặc phản hồi ý kiến của anh T về việc giải quyết vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên Toà căn cứ các kết quả thẩm tra, xét hỏi tại phiên Toà. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp là hôn nhân gia đình; Bị đơn anh Hồ Quốc T có đăng đăng ký hộ khẩu thường trú tại ấp 4, xã Đ, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An (Theo xác nhận của Công an xã Đ ngày 05 tháng 11 năm 2021) nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Đức Hoà, tỉnh Long An theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[1.2] Nguyên đơn chị Trần Thị Ngọc B xin vắng mặt và bị đơn anh Hồ Quốc T vắng mặt không lý do nên căn cứ vào khoản 1, khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt chị B và anh T.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị Ngọc B và anh Hồ Quốc T chung sống với nhau vào năm 2014, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Đ, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An ngày 10 tháng 02 năm 2014 nên quan hệ hôn nhân của chị B và anh T được xem là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Chị B và anh T chung sống với nhau hạnh phúc đến năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, vợ chồng thường xuyên cải vã dù hai bên đã cố gắng hàn gắn để kéo dài cuộc sống hôn nhân nhưng không được. Mặt khác, chị B khai hai vợ chồng đã ly thân từ cuối tháng 02 năm 2021 đến nay. Nay chị B xét thấy tình cảm vợ chồng không còn khả năng hàn gắn nên xin ly hôn anh T. Ngược lại, anh T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng cố tình vắng mặt không đến Tòa án để tham gia hòa giải đoàn tụ cũng như không tham gia phiên tòa. Từ đó, Hội đồng xét xử xét thấy, mâu thuẫn gia đình giữa chị B và anh T đã đến mức trầm trọng, mục đích hôn nhân không còn đạt được và cuộc sống chung vợ chồng không thể kéo dài. Vì vậy, chị B yêu cầu được ly hôn với anh T là phù hợp Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[2.2] Về con chung: Chị B khai, chị B và anh T chung sống có 01 con chung tên Hồ Quốc V, sinh ngày 04 tháng 4 năm 2014. Khi ly hôn, chị B xin được quyền tiếp tục nuôi con chung và không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con. Mặt khác, cháu V đã trên 07 tuổi và có nguyện vọng sống với chị B là phù hợp với quy định tại Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đính năm 2014 nên Hội đồng xét xử chấp nhận. Ngược lại, anh T đã được triệu tập hợp lệ nhưng không phản hồi ý kiến nên Hội đồng xét xử không xem xét nếu sau này có yêu cầu sẽ được giải quyết bằng một vụ án khác.

[2.3] Về tài sản chung: Chị B khai, không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do đó, Hội đồng xét xử không đề cập xem xét. Ngược lại, anh T đã được triệu tập hợp lệ nhưng không phản hồi ý kiến nên Hội đồng xét xử không xem xét nếu sau này có yêu cầu sẽ được giải quyết bằng một vụ án khác.

[2.4] Về nợ chung: Chị B khai, không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do đó, Hội đồng xét xử không đề cập xem xét. Ngược lại, anh T đã được triệu tập hợp lệ nhưng không phản hồi ý kiến nên Hội đồng xét xử không xem xét nếu sau này có yêu cầu sẽ được giải quyết bằng một vụ án khác.

[3] Về án phí: Chị Trần Thị Ngọc B phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm sung vào ngân sách Nhà nước theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Toà án.

Vì các lẽ trên 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 28, Điều 35, Điều 147, khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1, khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 5, Điều 244 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84, Điều 110, Điều 116, Điều 117, Điều 118 và Điều 119 của Luật hôn nhân gia đình 2014;

Căn cứ vào khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2014 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về án phí, lệ phí Tòa án

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trần Thị Ngọc B xin ly hôn với anh Hồ Quốc T.

Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị Ngọc B được ly hôn với anh Hồ Quốc T.

Về con chung: Chị Trần Thị Ngọc B được quyền tiếp tục nuôi con chung tên con chung tên Hồ Quốc V, sinh ngày 04 tháng 4 năm 2014 hiện chị B đang nuôi. Anh Hồ Quốc T không phải cấp dưỡng nuôi con vì chị B không yêu cầu.

Anh T có quyền, nghĩa vụ đến thăm nom cháu V mà không ai được cản trở. Trường hợp anh T lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì chị B có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của anh T theo quy định của pháp luật. Chị B cùng các thành viên gia đình không được cản trở việc thăm nom, chăm sóc, giáo dục con của anh T.

Khi cần thiết, trên cơ sở lợi ích của con chung thì anh T, chị B, người thân thích của các cháu V, Cơ quan quản lý Nhà nước về gia đình, Cơ quan quản lý Nhà nước về trẻ em, Hội liên hiệp phụ nữ đều có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người nuôi con, nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, hạn chế quyền của cha mẹ đối với con chưa thành niên theo quy định của pháp luật.

Về tài sản chung: Chị B khai, không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do đó, không đề cập xem xét.

Về nợ chung: Chị B khai, không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do đó, không đề cập xem xét.

Về án phí: Chị Trần Thị Ngọc B phải chịu 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm sung vào ngân sách Nhà nước, được khấu trừ số tiền 300.000đồng tạm ứng án phí mà chị B đã nộp theo biên lai số 9138 ngày 30 tháng 11 năm 2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Đức Hoà sang án phí để thi hành.

Án này là sơ thẩm, chị B, anh T vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc ngày niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

107
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, nuôi con chung số 34/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:34/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Hòa - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về