Bản án về ly hôn giữa chị H và anh T số 06/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN V, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 06/2022/HNGĐ-ST NGÀY 30/03/2022 VỀ LY HÔN GIỮA CHỊ H VÀ ANH T

Ngày 30 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 02/2022/TLST-HNGĐ ngày 10-01- 2022 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 10 tháng 3 năm 2022; giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Thu H, sinh năm 2002.

Nơi ĐKHKTT: Thôn T, xã H, huyện V, tỉnh Nam Định.(Có mặt).

Nơi cư trú: Thôn T, xã K, huyện V, tỉnh Nam Định.

- Bị đơn: Anh Mai Văn T, sinh năm 1991.

Nơi ĐKHKTT và cư trú: Thôn T, xã H, huyện V, tỉnh Nam Định.(Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Trong đơn khởi kiện và quá trình tham gia tố tụng tại Toà án, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thu H trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Mai Văn T tự nguyện đăng ký kết hôn tại UBND xã H, huyện V, tỉnh Nam Định. Anh chị có đăng ký kết hôn trên cơ sở tự nguyện và được UBND xã H cấp cho Giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 29- 12-2020. Vợ chồng chị có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán của địa phương và cùng chung sống với nhau tại nhà của bố mẹ anh T tại Thôn T, xã H, huyện V, tỉnh Nam Định. Vợ chồng chị chung sống hòa thuận hạnh phúc với nhau đến khoảng tháng 03-2021 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do: Vợ chồng chị không hợp, bất đồng quan điểm sống. Vì chị mới sinh con, sức khỏe không đảm bảo nhưng anh T lại muốn gần gũi quan hệ tình cảm với chị và chị không đồng ý, vì thế mà anh T đánh chị. Vợ chồng chị bắt đầu sống ly thân, chấm dứt quan hệ tình cảm từ tháng 11-2021 đến nay. Chị đã chuyển về nhà bố mẹ đẻ ở xã K sinh sống từ đó cho đến nay. Chị xác định chị không còn tình cảm tình nghĩa vợ chồng gì với anh T. Mâu thuẫn giữa vợ chồng ngày càng trầm trọng và đã kéo dài, cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc, vì vậy chị yêu cầu Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Nam Định xem xét giải quyết cho chị được ly hôn với anh T.

- Về con chung: Vợ chồng chị có 01 con chung là cháu Mai Diệp A, sinh ngày 29-8-2021. Hiện nay cháu A đang ở với anh T tại thôn T, xã H. Ly hôn, chị có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cháu A và không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con chung cho chị.

- Về tài sản chung, tài sản riêng, công nợ chung và những vấn đề khác có liên quan: Vợ chồng chị không có và chị không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

* Tại phiên tòa anh T vắng mặt, nhưng tại bản tự khai anh Mai Văn T trình bày như sau:

- Về quan hệ hôn nhân: Anh và chị Nguyễn Thị Thu H tự nguyện tìm hiểu, đăng ký kết hôn tại UBND xã H, huyện V, tỉnh Nam Định. Anh và chị H chung sống hòa thuận hạnh phúc với nhau đến khoảng tháng 03-2021 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do: Do anh nói với chị H là sống với anh mà khổ quá thì cứ ra đi, vậy nên chị H tự ý bỏ đi. Mâu thuẫn vợ chồng do không hợp nhau, bất đồng quan điểm sống. Vợ chồng bắt đầu sống ly thân, chấm dứt quan hệ tình cảm từ ngày 01-11-2021 (âm lịch) đến nay. Chị H chuyển về nhà bố mẹ đẻ ở xã K sinh sống từ đó cho đến nay và có quay về 1 lần để cãi nhau với anh rồi lại đi. Anh xác định anh vẫn còn tình cảm, tình nghĩa vợ chồng với chị H. Mâu thuẫn giữa vợ chồng mà anh kể trên có thể hóa giải được. Nay chị H xin ly hôn thì anh không đồng ý ly hôn với chị H.

- Về con chung: Vợ chồng anh có 01 con chung là cháu Mai Diệp A, sinh ngày 29-8-2021. Hiện nay cháu A đang ở với anh tại thôn T, xã H. Ly hôn, anh có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cháu A và không yêu cầu chị H phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh. Khi chị H bỏ đi, thì chị H có nói là bỏ lại con cho anh nuôi vậy mà khi đến Tòa án thì chị H lại đề nghị được trực tiếp nuôi con. Chị H đã bỏ con đến mấy tháng nay mà không quan tâm gì đến con nên anh không đồng ý giao con cho chị H.

- Về tài sản chung, tài sản riêng, công nợ chung và những vấn đề khác có liên quan: Vợ chồng anh không có và anh không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

Tại phiên tòa:

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện V, tỉnh Nam Định phát biểu ý kiến:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Thư ký Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và của Hội đồng xét xử tại phiên tòa, cũng như việc chấp hành pháp luật của đương sự.

- Về yêu cầu khởi kiện của đương sự: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào các Điều 51, 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Thu H:

+ Về quan hệ hôn nhân: Xử ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Thu H và anh Mai Văn T.

+ Về con chung: Giao cháu Mai Diệp A, sinh ngày 29-8-2021 cho chị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu A thành niên, có khả năng lao động tự lập được. Anh T không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị H.

+ Về tài sản, công nợ chung và các nội dung khác: Đương sự không đề nghị nên không đặt ra xem xét, giải quyết.

- Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị H phải nộp theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa. Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Anh Mai Văn T có đăng ký hộ khẩu thường trú và cư trú tại: Thôn T, xã H, huyện V, tỉnh Nam Định. Do đó, Tòa án nhân dân huyện V thụ lý giải quyết vụ án dân sự về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” giữa chị Nguyễn Thị Thu H và anh Mai Văn T là đúng thẩm quyền.

[2] Về nội dung: Chị Nguyễn Thị Thu H và anh Mai Văn T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền, nên hôn nhân hợp pháp được pháp luật bảo vệ. Tuy nhiên, trong quá trình chung sống chị H và anh T đã phát sinh mâu thuẫn trầm trọng, vợ chồng không còn hạnh phúc và đã sống ly thân nhiều tháng nay. Xét điều kiện, vợ chồng anh chị đã sống ly thân, mỗi người mỗi nơi, thực sự không còn quan tâm đến nhau. Từ lâu đã không thực hiện nghĩa vụ vợ chồng phải thương yêu, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc nhau, cùng nhau chia sẻ thực hiện các công việc gia đình. Chị H xác định vợ, chồng không còn khả năng đoàn tụ. Như vậy quyền và nghĩa vụ về nhân thân trong mối quan hệ giữa vợ và chồng của chị H và anh T đã không đảm bảo với quy định tại các Điều 17, 19, 20, 21 của Luật hôn nhân và gia đình. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ vào các Điều 51, 56 của Luật hôn nhân và gia đình cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị H, xử ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Thu H và anh Mai Văn T là phù hợp.

[3] Về con chung: chị Nguyễn Thị Thu H và anh Mai Văn T có 01 con chung là Mai Diệp A, sinh ngày 29-8-2021. Hiện nay cháu A đang sống cùng với anh T tại thôn T, xã H.

Xét thấy chị H có sức khỏe, có thu nhập, hiện nay chị H có nơi cư trú có công việc và thu nhập ổn định. Như vậy chị H có đầy đủ các điều kiện cần thiết để được quyền trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Ngoài ra, cháu A chưa đủ 36 tháng tuổi, bản thân chị H cũng tha thiết đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng cháu A. Do đó Hội đồng xét xử căn cứ vào các Điều 81, 82 của Luật hôn nhân và gia đình, giao cháu A cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp để đảm bảo đầy đủ các điều kiện tốt nhất để cháu A học tập, sinh hoạt và phát triển.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị H không yêu cầu, nên anh T không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị H.

[4] Về tài sản chung, tài sản riêng, công nợ chung và những vấn đề khác có liên quan: Đương sự không đề nghị nên Tòa án không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị H phải nộp theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình. Căn cứ Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

1. Xử ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Thu H và anh Mai Văn T.

2. Về con chung: Giao cháu Mai Diệp A, sinh ngày 29-8-2021 cho chị Nguyễn Thị Thu H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. (Cháu Mai Diệp A đang ở với anh Mai Văn T).

Anh Mai Văn T có trách nhiệm giao cháu Mai Diệp A cho chị Nguyễn Thị Thu H trực tiếp nuôi dưỡng. Anh Mai Văn T không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Anh T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở, nhưng không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.

3. Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Thu H phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng).

Số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) chị H đã nộp tạm ứng án phí, theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 00001394 ngày 10 tháng 01 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện V, tỉnh Nam Định được đối trừ. (chị H đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm).

Chị Nguyễn Thị Thu H có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Mai Văn T vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền tự nguyện thi hành án, thỏa thuận thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

152
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn giữa chị H và anh T số 06/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:06/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vụ Bản - Nam Định
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về