Bản án về ly hôn giữa chị B và anh Kh số 48/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN L, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 48/2022/HNGĐ-ST NGÀY 10/05/2022 VỀ LY HÔN GIỮA CHỊ B VÀ ANH KH

Ngày 10 tháng 5 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 103/2022/TLST- HNGĐ ngày 11 tháng 3 năm 2022 về việc: “Tranh chấp ly hôn”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 52/2022/QĐXXST- HNGĐ ngày 25 tháng 4 năm 2022, giữa:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị B, sinh năm 1973 (có mặt)

- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn Kh, sinh năm 1968 (có đơn xin xét xử vắng mặt) Cùng địa chỉ: Thôn B, xã S, huyện L, tỉnh Bắc Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ghi ngày 26/01/2022, các lời khai tiếp theo và diễn biến tại phiên tòa, nguyên đơn chị Nguyễn Thị B trình bày: Chị và anh Nguyễn Văn Kh được tự do tìm hiểu và tự nguyện đăng ký kết hôn ngày 10/12/1990 tại UBND xã S, huyện L, tỉnh Bắc Giang. Sau khi kết hôn chị về chung sống cùng anh Kh ngay. Vợ chồng chung sống hòa thuận, hạnh phúc được một thời gian dài, đến năm 2021 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do bất đồng quan điểm trong cuộc sống và trong làm ăn kinh tế nên thường xuyên cãi nhau. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, đề nghị giải quyết cho chị được ly hôn với anh Kh.

Về con chung: Quá trình chung sống chị và anh Kh có 02 con chung là Nguyễn Văn Tuấn, sinh năm 1992 và Nguyễn Văn Vũ, sinh năm 1994, các cháu khỏe mạnh và phát triển bình thường và đã trưởng thành nên không yêu cầu giải quyết.

Về tài sản chung: Tại đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án chị có yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng gồm: 01 thửa đất diện tích 4.582m2 tại thôn B, xã S, huyện L, tỉnh Bắc Giang, tài sản trên đất có 01 nhà cấp 4, công trình phụ và cây cối, trị giá tài sản khoảng 600 triệu đồng. Ngoài ra chị còn yêu cầu chia đôi số tiền 280 triệu đồng là tiền vợ chồng được bồi thường về đất nhưng nay vợ chồng chị đã tự thỏa thuận về chia tài sản nên chị xin rút yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng.

Về công nợ: Vợ chồng chị không nợ ai nên không yêu cầu giải quyết.

Anh Nguyễn Văn Kh là bị đơn, có đơn xin xét xử vắng mặt nhưng có lời khai trình bày như sau: Vợ chồng anh có mâu thuẫn từ tháng 11/2021, nguyên nhân là do chị B không chịu làm ăn, suốt ngày đi chơi, không chăm lo cho gia đình nhưng anh vẫn còn tình cảm với chị B nên chị B xin ly hôn, anh không đồng ý ly hôn.

Về con chung: Vợ chồng anh có 02 con chung như chị B trình bày là đúng, các cháu đã trưởng thành, anh không yêu cầu giải quyết.

Về tài sản chung: Chị B yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng gồm: 01 thửa đất diện tích 4.582m2 tại thôn B, xã S, huyện L, tỉnh Bắc Giang, tài sản trên đất có 01 nhà cấp 4, công trình phụ, cây cối và yêu cầu chia số tiền 280 triệu đồng là tiền vợ chồng anh được bồi thường về đất nhưng nay vợ chồng anh đã tự thỏa thuận về chia tài sản và chị B đã rút yêu cầu chia tài sản nên anh cũng không yêu cầu giải quyết.

Về công nợ: Vợ chồng anh không nợ ai nên không yêu cầu giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện L tham gia phiên tòa xét xử sơ thẩm, phát biểu ý kiến:

Quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý đến trước khi mở phiên tòa Thẩm phán và Thư ký Tòa án tuân theo đúng trình tự tố tụng. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử sơ thẩm thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về phía các đương sự, chấp hành nghiêm chỉnh, thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình, anh Kh là bị đơn có đơn xin xét xử vắng mặt. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào các Điều 51, 56 của Luật hôn nhân và gia đình; khoản 4 Điều 147, Điều 227; Điều 228; Điều 271, Điều 272 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm án phí, lệ phí Tòa án, xử: Cho chị Nguyễn Thị B được ly hôn anh Nguyễn Văn Kh.

Về tài sản: Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu chia tài sản của chị Nguyễn Thị B và trả lại cho chị B tiền tạm ứng án phí đã nộp.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra chứng cứ tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, HĐXX nhận định:

[1] Về tố tụng: Các đương sự đã được tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử. Bị đơn, anh Nguyễn Văn Kh có đơn xin xét xử vắng mặt nên HĐXX căn cứ vào khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của BLTTDS xét xử vắng mặt anh Kh.

[2] Về nội dung: Chị Nguyễn Thị B và anh Nguyễn Văn Kh được tự do tìm hiểu và tự nguyện đăng ký kết hôn ngày 10/12/1990 tại UBND xã S, huyện L, tỉnh Bắc Giang nên hôn nhân giữa chị B và anh Kh là hôn nhân hợp pháp. Vợ chồng chung sống hòa thuận, hạnh phúc đến tháng 11/2021 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do bất đồng quan điểm trong cuộc sống và làm ăn kinh tế, nay hai bên không còn quan tâm, chăm sóc lẫn nhau. Chị B xác định tình cảm vợ chồng không còn và xin ly hôn. Anh Kh mong muốn vợ chồng về đoàn tụ, nhưng anh Kh cũng xác nhận vợ chồng có mâu thuẫn từ tháng 11/2021, nguyên nhân là do chị B không chịu làm ăn, không chăm lo cho gia đình. Điều đó chứng tỏ cuộc sống vợ chồng giữa chị B và anh Kh đã đến mức trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần căn cứ Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình. Cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị B và anh Nguyễn Văn Kh.

[4] Về tài sản: Tại đơn khởi kiện và các lời khai chị B yêu cầu giải quyết về tài sản là thửa đất diện tích 4.582m2 tại thôn B, xã S, huyện L, tỉnh Bắc Giang, tài sản gắn liền với đất có 01 nhà cấp 4, công trình phụ và cây cối, ngoài ra còn yêu cầu chia đôi số tiền 280 triệu đồng là tiền vợ chồng được bồi thường về đất. Quá trình giải quyết vụ án chị B xin rút yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng, anh Kh cũng nhất trí không yêu cầu giải quyết về tài sản nên HĐXX đình chỉ xét xử đối với yêu cầu khởi kiện chia tài sản chung của chị Nguyễn Thị B.

Về công nợ chung: Chị B và anh Kh xác định không có, không đề nghị giải quyết nên HĐXX không đặt ra xem xét.

[5] Về án phí: Chị B phải chịu 300.000 đồng tiền án phí ly hôn sơ thẩm. Xác nhận chị B đã nộp 15.000.000 đồng tiền tạm ứng án phí. Trả lại chị B 14.700.000 đồng tiền tạm ứng án phí chia tài sản.

[6] Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51, 56 của Luật hôn nhân và gia đình; Căn cứ điều 28, điều 35, điều 39, khoản 4 Điều 147; khoản 1 Điều 227; khoản 1 Điều 228; Điều 271, Điều 272 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 24, 26, 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm án phí, lệ phí Tòa án. Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị B và anh Nguyễn Văn Kh.

2. Về tài sản: Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu khởi kiện chia tài sản chung của vợ chồng của chị Nguyễn Thị B.

3. Về án phí: Chị Nguyễn Thị B phải chịu 300.000đ tiền án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền 15.000.000đ chị B đã nộp tạm ứng án phí tại Biên lai thu số 0013591 ngày 10/3/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện L. Hoàn trả chị B 14.700.000 đồng (Mười bốn triệu, bẩy trăm nghìn đồng).

4. Về quyền kháng cáo: Báo cho đương sự có mặt biết, có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

140
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn giữa chị B và anh Kh số 48/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:48/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lục Nam - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 10/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về