Bản án về kiện đòi tài sản số 13/2023/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH SƠN, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 13 /2023/DS-ST NGÀY 15/08/2023 VỀ KIỆN ĐÒI TÀI SẢN

Ngày 15 tháng 8 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 36/2023/TLST- DS ngày 23 tháng 6 năm 2023 về việc “Kiện đòi tài sản” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 45/2023/QĐXXST-DS ngày 01 tháng 8 năm 2023 giữa các đương sự:

N đơn: Anh Nguyễn Xuân  N, sinh năm 1992 Địa chỉ: Khu Đồn Ướt, xã Địch Quả, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ.

Bị đơn: Anh Đinh Công T, sinh năm 1986 Và vợ là chị Đinh Thị N, sinh năm 1987 Cùng địa chỉ: Xóm Chiềng, xã Địch Quả, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ.

(Anh  N, anh Thạo có mặt, chị N có đơn xin xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và trong quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, N đơn anh Nguyễn Xuân  N trình bày:

Gia đình anh có mở đại lý cám chăn nuôi gia súc, gia cầm tại khu Đồn Ướt, xã Địch Quả, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ. Trong quá trình kinh doanh vợ chồng anh Đinh Công T và chị Đinh Thị N ở xóm Chiềng, xã Địch Quả huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ đã đến đại lý thức ăn chăn nuôi của gia đình đặt vấn đề mua bán thức ăn chăn nuôi gia cầm, thời điểm đó vào năm 2019, sau đó anh đã cung cấp thức ăn chăn nuôi gia cầm cho anh Thạo, chị N theo thỏa thuận nêu trên tại trang trại gia đình anh Thạo, chị N, hai bên không lập hợp đồng mà chỉ thỏa thuận bằng miệng và theo dõi trên sổ sách. Trong quá trình chăn nuôi, anh Thạo, chị N đã mua cám nhiều lần, nhiều đợt và tính đến ngày 30/4/2023 hai bên chốt nợ, anh Thạo, chị N còn nợ lại anh  N số tiền 450.000.000đ (Bốn trăm năm mươi triệu đồng) là tiền mua thức ăn chăn nuôi cho gà.

Anh  N đã đòi nhiều lần nhưng anh Thạo, chị N không trả số tiền nêu trên. Nay anh đề nghị anh Thạo, chị N phải có trách nhiệm trả cho anh số tiền gốc là 450.000.000đ và tiền lãi chậm trả của số tiền 450.000.000đ kể từ ngày 30/4/2023 đến khi trả xong số tiền gốc nêu trên theo lãi suất là 10%/năm.

Bị đơn anh Đinh Công T trình bày: Vợ chồng anh chị là khách hàng mua cám chăn nuôi gia cầm của anh Nguyễn Xuân  N từ năm 2019 đến năm 2022. Gia đình anh chị có 4 chuồng nuôi gà, mỗi chuồng nuôi 2000 con gà. Trong thời gian 3 năm anh cùng vợ anh nuôi chuyển tổng 14 chuồng, mỗi chuồng chi phí thức ăn trên 200.000.000đ.

Do chăn nuôi thua lỗ nên hiện tại anh, chị có nợ của anh Nguyễn Xuân  N số tiền 450.000.000đ (Bốn trăm năm mươi triệu đồng) được thể hiện trong giấy chốt nợ ngày 30/4/2023 như anh  N cung cấp cho Tòa án là đúng (Giấy này có chữ ký của hai vợ chồng anh, chị). Nay anh  N yêu cầu anh, chị trả số tiền 450.000.000đ nêu trên anh, chị nhất trí trả nhưng do chưa có tiền trả ngay nên anh, chị xin khất trả dần, khi nào kinh tế ổn định sẽ trả cho anh  N. Việc anh  N yêu cầu anh, chị chịu tiền lãi của số tiền 450.000.000đ theo lãi suất là 10%/ năm tại thời điểm trả nợ anh, chị không nhất trí, vì khi chốt nợ chỉ ghi nợ gốc mà không thỏa thuận tính lãi.

* Chị Đinh Thị N không có mặt tại phiên tòa, nhưng có trình bày quan điểm tại bản tự khai và biên bản hòa giải như sau: Lời trình bày của chị N thống nhất như quan điểm của anh Thạo, thể hiện. Vợ chồng chị N có thỏa thuận mua cám chăn nuôi gà của anh Nguyễn Xuân  N từ năm 2019 đến năm 2022. Ngày 30/4/2023 hai bên chốt sổ anh chị còn nợ của anh  N số tiền 450.000.000đ được thể hiện trong giấy chốt nợ ngày 30/4/2023 mà anh  N cung cấp cho Tòa án (Giấy này có chữ ký của hai vợ chồng anh, chị). Do chăn nuôi thua lỗ nên anh, chị chưa trả được cho anh  N. Nay anh  N yêu cầu anh, chị trả số tiền 450.000.000đ nêu trên anh, chị nhất trí trả nhưng do chưa có tiền trả ngay nên anh, chị xin khất trả dần, khi nào kinh tế ổn định sẽ trả cho anh  N. Việc anh  N yêu cầu anh, chị chịu tiền lãi của số tiền 450.000.000đ theo lãi xuất là 10%/ năm chị không nhất trí, vì khi chốt nợ chỉ ghi nợ gốc mà không thỏa thuận tính lãi.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét, đánh giá đầy đủ và toàn diện chứng cứ Hội đồng xét xử nhận định.

[1]. Về thủ tục tố tụng: N đơn- Anh Nguyễn Xuân  N; Bị đơn- Anh Đinh Công T và chị Nguyễn Thị N đều đăng kí HKTT và cư trú tại huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ. Anh  N khởi kiện anh Thạo, chị N tại Tòa án nhân dân huyện Thanh Sơn, yêu cầu anh Thạo, chị N trả anh tiền mua cám chăn nuôi, theo giấy chốt nợ ngày 30/4/2023. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35 khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án nhân dân huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền.

Vụ án dân sự không thuộc trường hợp qui định tại khoản 2 Điều 21- BLTTDS nên Viện Kiểm Sát không tham gia phiên tòa là đúng qui định.

Chị N vắng mặt tại phiên tòa lần thứ nhất nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt. HĐXX xét xử vắng mặt chị N là đúng quy định tại khoản 1 Điều 228 BLTTDS.

[2]. Xét yêu cầu khởi kiện của N đơn:

Căn cứ và các tài liệu, chứng cứ do N đơn cung cấp cùng quan điểm của các đương sự trong quá trình tố tụng tại Tòa án đã chứng minh: Anh Nguyễn Xuân  N mở đại lý cung cấp thức ăn chăn nuôi gia cầm, gia súc tại khu Đồn Ướt, xã Địch Quả, anh Thạo, chị N có thỏa thuận miệng thực hiện giao dịch mua, bán cám chăn nuôi với anh  N, theo đó anh  N là người bán hàng, anh Thạo, chị N là người mua hàng. Quá trình thực hiện giao dịch hai bên ghi sổ mua bán sau đó cùng chốt nợ. Đến đầu tháng 4/2023 hai bên không giao dịch mua bán nữa, ngày 30/4/2023 hai bên chốt nợ, theo đó anh Thạo, chị N còn nợ anh  N 450.000.000đ, anh  N đã đòi nhiều lần nhưng anh Thạo, chị N không trả. Thực chất đây là số tiền anh Thạo, chị N còn nợ lại anh  N trong giao dịch mua bán thức ăn chăn nuôi gà, được xác lập trên cơ sở tự nguyện, thỏa thuận giữa các bên đương sự. Theo nội dung tại giấy ghi nợ thì bên cho nợ là anh  N, bên nhận nợ là anh Thạo, chị N, tổng số tiền nhận nợ = 450.000.000đ không có thời gian trả nợ và không thỏa thuận lãi suất. Sự thừa nhận của N đơn, bị đơn và các tài liệu khác có tại hồ sơ đủ cơ sở để HĐXX kết luận: Việc nhận nợ trên được xác lập ngày 30/4/2023 giữa anh  N và anh Thạo, chị N là giao dịch hợp pháp.

Do anh Thạo, chị N vi phạm nghĩa vụ trả nợ nên anh  N khởi kiện yêu cầu vợ chồng anh Thạo, chị N phải trả anh số tiền mua vật tư chăn nuôi còn nợ 450.000.000đ và lãi phát sinh là 10%/năm tính từ ngày 30/4/2023 đến nay là có căn cứ qui định tại Điều 440- BLDS.

[3]. Về yêu cầu tính lãi của anh  N: Như đã phân tích tại Mục [2], Giấy xác nhận nợ giữa anh  N và anh Thạo, chị N là số tiền anh Thạo, chị N còn nợ anh  N trong giao dịch mua bán tài sản và không có thỏa thuận về lãi suất. Nay anh  N yêu cầu anh Thạo, chị N trả lãi về chậm thực hiện nghĩa vụ là 10%/năm/số tiền chậm trả là phù hợp qui định tại khoản 2 Điều 357; Khoản 3 Điều 440- BLDS.

[4].Từ những nhận định tại Mục [2]; [3]; HĐXX có đủ căn cứ kết luận:

Yêu cầu khởi kiện của anh  N là có căn cứ qui định tại các Điều 430, Điều 440 - BLDS 2015. Buộc anh Đinh Công T và chị Đinh Thị N phải trả cho anh Nguyễn Xuân  N toàn bộ số tiền nợ mua vật tư chăn nuôi gà là 450.000.000đ và tiền lãi 10%/ năm tính từ ngày 30/4/2023 đến ngày xét xử sơ thẩm 15/8/2023 là 03 tháng 15 ngày: (450.000.000đ x 10%/năm x 03 tháng, 15 ngày = 13.125.000đ).

[5] Về án phí và quyền kháng cáo: Do yêu cầu khởi kiện của anh  N được chấp nhận nên anh Đinh Công T và chị Đinh Thị N phải chịu án phí, các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 2 Điều 357, Điều 430, Điều 440 Bộ luật dân sự 2015;

khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 147, Điều 271, khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của N đơn anh Nguyễn Xuân  N.

Buộc anh Đinh Công T và chị Đinh Thị N có nghĩa vụ phải trả cho anh Nguyễn Xuân  N tổng số tiền 463.125.000đ (Bốn trăm sáu mươi ba triệu một trăm hai lăm nghìn đồng), trong đó: Số tiền gốc là 450.000.000đồng (Bốn trăm năm mươi triệu đồng); Tiền lãi là 13.125.000đ (Mười ba triệu một trăm hai lăm nghìn đồng).

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ Luật Dân sự năm 2015.

2.Về án phí dân sự sơ thẩm: Vợ chồng anh Đinh Công T và chị Đinh Thị N phải nộp 22.525.000đ (Hai mươi hai triệu năm trăm hai lăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Hoàn trả cho anh Nguyễn Xuân  N 11.000.000đ (Mười một triệu đồng) tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số AA/2020/0007189 ngày 23 tháng 6 năm 2023 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ.

Các đương sự có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ xét xử phúc thẩm.

Trường hợp Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

152
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về kiện đòi tài sản số 13/2023/DS-ST

Số hiệu:13/2023/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Sơn - Phú Thọ
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:15/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về