Bản án về không công nhận là vợ chồng số 07/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KRÔNG PẮC, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 07/2022/HNGĐ-ST NGÀY 29/03/2022 VỀ KHÔNG CÔNG NHẬN LÀ VỢ CHỒNG

Ngày 29 tháng 3 năm 2022 tại hội trường Tòa án nhân dân huyện Krông Pắc xét xử sơ thẩm vụ án dân sự thụ lý số 72/2022/TLST-HNGĐ ngày 22 tháng 02 năm 2022 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 08/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 11 tháng 3 năm 2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Ngô Thị Q, sinh năm 1975 (Vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt); địa chỉ: Thôn P, xã V, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.

2. Bị đơn: Ông Trương Văn C, sinh năm 1974 (Vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt); địa chỉ: Thôn P, xã V, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn bà Ngô Thị Q trình bày: Bà Q và ông Trương Văn C tự nguyện chung sống với nhau từ tháng 3 năm 1991, nhưng không có đăng ký kết hôn. Sau khi lấy nhau chúng tôi sống chung tại Thôn P, xã V, huyện K, tỉnh Đắk Lắk từ đó cho đến nay.

Thời gian đầu chung sống hạnh phúc, sau đó đến năm 2013 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân chủ yếu là do bất đồng về quan điểm sống, tính tình không hợp nhau nên dẫn đến chúng tôi thường xuyên xảy ra cãi vã, xô xát nhau. Ngoài ra, ông C có quan hệ với người phụ nữ khác. Mặc dù, chúng tôi đã cố gắng hàn gắn tình cảm rất nhiều lần nhưng không thành. Nay bà Q xác định không còn tình cảm nữa, bà Q và ông C cũng không đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Vì vậy, bà Q yêu cầu Tòa án giải quyết không công nhận bà Q và ông Trương Văn C là vợ chồng.

Về con chung: Có 03 con chung gồm: Trương Văn T, sinh năm 1992; Trương Văn T1, sinh năm 1995; Trương Văn T2, sinh năm 1997 các con chung đã đủ 18 tuổi phát triển bình thường và tự nuôi sống bản thân nên không yêu cầu tòa án giải quyết.

Về tài sản chung, nợ chung: không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án bị đơn ông Trương Văn C trình bày:

Ông C và bà Ngô Thị Q tự nguyện chung sống với nhau từ tháng 3 năm 1991 đến nay, nhưng không có đăng ký kết hôn. Sau khi lấy nhau chúng tôi sống chung tại Thôn P, xã V, huyện K, tỉnh Đắk Lắk từ đó cho đến nay.

Thời gian đầu chung sống hạnh phúc, đến năm 2013 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân chủ yếu là do bất đồng về quan điểm sống, tính tình không hợp nhau. Trong cuộc sống vợ chồng luôn nghi ngờ nhau nên hay xảy ra cãi vã. Mặc dù, chúng tôi đã cố gắng hàn gắn tình cảm rất nhiều lần nhưng không thành. Nay bà Q yêu cầu Tòa án giải quyết không công nhận bà Q và ông là vợ chồng, thì ông C đồng ý vì ông C và bà Q cũng không đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật.

Về con chung: Có 03 con chung gồm: Trương Văn T, sinh năm 1992; Trương Văn T1, sinh năm 1995; Trương Văn T2, sinh năm 1997 các con chung đã đủ 18 tuổi phát triển bình thường và tự nuôi sống bản thân nên không yêu cầu tòa án giải quyết.

Về tài sản chung, nợ chung: không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên:

- Về tố tụng: Thẩm phán xác định đúng quan hệ pháp luật, thẩm quyền giải quyết vụ án; xác định đúng tư cách tham gia tố tụng của các đương sự; việc thu thập chứng cứ, trình tự giải quyết vụ án theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS).

Trong quá trình thụ lý, giải quyết, xét xử vụ án thì Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và các đương sự đã chấp hành đúng các quy định của pháp luật.

- Về nội dung: Áp dụng khoản 7 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 14, Điều 15, khoản 2 Điều 53 Luật hôn nhân và gia đình 2014; điểm c mục 3 Nghị Quyết 35/2000/NQ-QH10 ngày 09/6/2000 của Quốc hội. Đề nghị HĐXX Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Về hôn nhân: Tuyên không công nhận bà Ngô Thị Q và ông Trương Văn C là vợ chồng; Về con chung: Hiện các con chung đã đủ tuổi trưởng thành nên không xem xét giải quyết; Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, HĐXX nhận định:

[1] Về tố tụng: Quan hệ tranh chấp giữa các đương sự là Không công nhận là vợ chồng thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, bị đơn có nơi cư trú tại Thôn P, xã V, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Căn cứ khoản 7 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Krông Pắc.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Bà Ngô Thị Q với ông Trương Văn C chung sống với nhau như vợ chồng từ tháng 3 năm 1991, ông bà có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình nhưng không đăng ký kết hôn là vi phạm Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình. Bà Q có yêu cầu Tòa án không công nhận quan hệ vợ chồng giữa bà Q và ông C. Căn cứ khoản 1 Điều 14, khoản 2 Điều 53 Luật hôn nhân và gia đình, HĐXX cần chấp nhận yêu cầu của bà Q, tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng giữa bà Ngô Thị Q với ông Trương Văn C.

[2.2] Về con chung: Các con chung Trương Văn T, sinh năm 1992; Trương Văn T1, sinh năm 1995; Trương Văn T2, sinh năm 1997, các con chung đã đủ 18 tuổi phát triển bình thường và tự nuôi sống bản thân, bà Q, ông C không yêu cầu Tòa án giải quyết nên HĐXX không xem xét giải quyết.

[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Bà Ngô Thị Q, ông Trương Văn C tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết nên HĐXX không xem xét giải quyết.

[3] Về án phí: Bà Ngô Thị Q phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí về hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của Pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 7 Điều 28; Điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; Điều 266 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự.

Áp dụng khoản 1 Điều 14; khoản 2 Điều 53 Luật hôn nhân và gia đình.

Áp dụng khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Ngô Thị Q.

Về quan hệ hôn nhân: Không công nhận quan hệ vợ chồng giữa bà Ngô Thị Q với ông Trương Văn C.

Về con chung: Trương Văn T, sinh năm 1992; Trương Văn T1, sinh năm 1995; Trương Văn T2, sinh năm 1997, các con chung đã đủ 18 tuổi phát triển bình thường và tự nuôi sống bản thân nên bà Q, ông C không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

2. Về án phí: Bà Ngô Thị Q phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí về hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) đã nộp theo biên lai thu số AA/2021/0015871 ngày 22/02/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Krông Pắc.

3. Thông báo quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa, được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

222
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về không công nhận là vợ chồng số 07/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:07/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Krông Pắc - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về