TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 467/2023/HC-PT NGÀY 27/06/2023 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI
Ngày 27 tháng 6 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân Cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 823/2022/TLPT-HC ngày 02/12/2022 về việc: “Khiếu kiện Quyết định hành chính và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”.
Do Bản án hành chính sơ thẩm số: 41/2022/HC-ST ngày 24/10/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 1386/2023/QĐ-PT ngày 27 tháng 3 năm 2023, giữa các đương sự:
- Người khởi kiện: Bà Võ Thị D1, sinh năm 1932. Địa chỉ: huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang.
Đại diện theo ủy quyền của bà D1: Bà Võ Thị Kim Ph1, sinh năm 1973 (có mặt);
Địa chỉ:, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang.
- Người bị kiện: Ủy ban nhân dân huyện CG, tỉnh Tiền Giang.
Người đại diện hợp pháp của người bị kiện: Ông Nguyễn Hồng H, chức vụ: Chủ tịch, là người đại diện theo pháp luật của Ủy ban nhân dân huyện CG (vắng mặt).
Địa chỉ: huyện CG, tỉnh Tiền Giang.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Ông Võ Quốc T1, sinh năm 1964;
Địa chỉ: Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang. (có mặt) Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông T1: Luật sư Nguyễn Văn D1, thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh. Có mặt -Người kháng cáo: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Võ Quốc T1.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Người khởi kiện bà Võ Thị D1 có đại diện theo ủy quyền bà Võ Thị Kim Ph1 trình bày:
Vào ngày 22/9/2011, Ủy ban nhân dân (UBND) huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH09458, thửa số 612, tờ bản đồ số 1, diện tích 1900 m2; Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH09457, thửa 613, tờ bản đồ số 1, diện tích 329 m2 và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất CH09459, thửa 615, tờ bản đồ số 1, diện tích 6200 m2 cho Võ Quốc T1 là sai; bởi lẻ các thửa đất nói trên là của ông Lê Văn D1 và bà Võ Thị D1 nhưng không biết lý do gì mà UBND huyện CG lại cấp cho Võ Quốc T1, ông T1 diện cớ giấy tờ bị thất lạc nên xin cấp mới.
Trong khi đó, vào ngày 13/7/2001 Tòa án nhân dân huyện CG giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất giữa ông Dư với bà D1, anh T1, Tòa án ra quyết định số 95/DS-ST ngày 13/7/2001. Theo đó anh Võ Quốc T1 thống nhất chuyển cho vợ chồng ông Lê Văn D1 và bà Võ Thị D1 đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích 11.110m2 tọa lạc tại ấp An khương, xã An Thạnh Thủy, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang, do anh T1 đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 02738/QSDĐ ngày 20/6/1997. Vợ chồng ông Dư và bà D1 có trách nhiệm đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền làm thủ tục sang tên qua vợ chồng bà đứng khi quyết định có hiệu lực pháp luật: Trong thời gian này bà D1 không biết nên không đi làm thủ tục, đến năm 2011 ông T1 ngang nhiên làm cớ mất giấy chứng nhận để yêu cầu cấp lại quyền sử dụng đất mới.
Bà Võ Thị D1 yêu cầu Tòa án hủy bỏ các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sau:
- Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ cấp giấy chứng nhận CH09459 ngày 22/9/2011 thửa đất số 651, tờ bản đồ số 01, diện tích 6200m2 đất tọa lạc ấp An Khương, xã An Thạnh Thủy, huyện CG do Ủy ban nhân dân huyện CG cấp cho ông Võ Quốc T1.
- Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ cấp giấy chứng nhận CH09457 ngày 22/9/2011 thửa đất số 613, tờ bản đồ số 01, diện tích 329m2 đất tọa lạc ấp An Khương, xã An Thạnh Thủy, huyện CG do Ủy ban nhân dân huyện CG cấp cho ông Võ Quốc T1.
- Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ cấp giấy chứng nhận CH09458 ngày 22/9/2011 thửa đất số 612, tờ bản đồ số 01, diện tích 1900m2 đất tọa lạc ấp An Khương, xã An Thạnh Thủy, huyện CG do Ủy ban nhân dân huyện CG cấp cho ông Võ Quốc T1.
Người bị kiện Ủy ban nhân huyện CG trình bày:
Năm 1997, ông Võ Quốc T1, sinh năm 1964 được Ủy ban nhân dân huyện CG cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 02738/QSDĐ/03QĐUB ngày 20 tháng 6 năm 1997 gồm các thửa đất như sau:
+ Thửa đất số 612, diện tích 1.855,0 m2, mục đích sử dụng là đất “V+T” + Thửa đất số 613, diện tích là 312,0 m2, mục đích sử dụng là đất “CLN” + Thửa đất số 615, diện tích là 6.018,0 m2, mục đích sử dụng là đất “LUC” + Thửa đất số 559, diện tích là 2.925,0 m2, mục đích sử dụng là đất “CLN”. Năm 2011, ông Võ Quốc T1 làm đơn cớ mất Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 02738/QSDĐ/03QĐUB ngày 20 tháng 6 năm 1997 với lý do xây dựng nhà ở bị mất để xin cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Kết quả Ủy ban nhân dân huyện CG đã hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 02738/QSDĐ/03QĐUB ngày 20 tháng 6 năm 1997 và cấp lại cho ông Võ Quốc T1 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất 03 thửa đất (thửa đất số 612, 613, 615) như sau:
+ Thửa đất số 612, diện tích 1.900,0m2, mục đích sử dụng là đất “ONT+CLN”, Số vào sổ cấp Giấy chứng nhận CH09458 cấp ngày 22 tháng 9 năm 2011.
+ Thửa đất số 613, diện tích là 329,0 m2, mục đích sử dụng là đất “CLN” số vào sổ cấp Giấy chứng nhận CH09457 cấp ngày 22 tháng 9 năm 2011.
+ Thửa đất số 615, diện tích là 6.200 m2, mục đích sử dụng là đất “LUC” số vào sổ cấp Giấy chứng nhận CH09459 cấp ngày 22 tháng 9 năm 2011.
Về trình tự thủ tục cấp lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Võ Quốc T1 được thực hiện đúng theo trình tự thủ tục tại thời điểm cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Võ Quốc T1 có đại diện là bà Dương Thị Kim Loan trình bày:
Về yêu cầu khởi kiện của bà D1, ông T1 không có ý kiến trình bày. Tuy nhiên nhiều năm qua bà D1 đã bị hạn chế năng lực hành vi dân sự nên không tự ý làm đơn khởi kiện vụ án được, yêu cầu Tòa án giám định năng lực hành vi dân sự của bà Võ Thị D1.
Tại bản án hành chính sơ thẩm số: 41/2022/HS-CT ngày 24/10/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang đã quyết định:
Căn cứ khoản 1 Điều 30, khoản 2 Điều 32, Điều 116, khoản 2 Điều 157, điểm b khoản 2 Điều 193 Luật tố tụng hành chính;
Căn cứ khoản 5 Điều 46; khoản 5 Điều 50 Luật đất đai năm 2003; khoản 3 Điều 100 Luật Đất đai; Căn cứ Điều 77, khoản 1 Điều 84 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính Phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật đất đai.
Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;
Xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Võ Thị D1 hủy các văn bản sau:
+ Hủy Quyết định số 645/QĐ-UBND ngày 22/9/2011 của Ủy ban nhân dân huyện CG về việc hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 02738/QSDĐ/03/QĐ.UBND ngày 20/6/1997 cấp cho ông Võ Quốc T1.
+ Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho ông Võ Quốc T1, số vào sổ CH09458, thửa đất số 612, tờ bản đồ 01, diện tích 1.900m2, đất tại ấp An Khương, xã An Thạnh Thủy, huyện Chợ Gạo, Tiền Giang do Ủy ban nhân dân huyện CG cấp ngày 22/9/2011.
+ Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho ông Võ Quốc T1, số vào sổ CH09457, thửa đất số 613, tờ bản đồ 01, diện tích 329m2, đất tại ấp An Khương, xã An Thạnh Thủy, huyện Chợ Gạo, Tiền Giang do Ủy ban nhân dân huyện CG cấp ngày 22/9/2011.
+ Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho ông Võ Quốc T1, số vào sổ CH09459, thửa đất số 615, tờ bản đồ 01, diện tích 6.200m2, đất tại ấp An Khương, xã An Thạnh Thủy, huyện Chợ Gạo, Tiền Giang do Ủy ban nhân dân huyện CG cấp ngày 22/9/2011.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Không đồng ý với quyết định của Bản án sơ thẩm, ngày 28/10/2022 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Võ Quốc T1 có đơn kháng cáo đề nghị sửa Bản án sơ thẩm theo hướng bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Võ Thị D1.
-Tại phiên tòa phúc thẩm:
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Võ Quốc T1 giữ nguyên nội dung yêu cầu kháng cáo đề nghị sửa Bản án sơ thẩm, bác yêu cầu khởi kiện của bà D1 vì các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho ông ngày 22/9/2011 là đúng pháp luật.
-Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông T1 phát biểu:
Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét hiện nay bà D1 không còn minh mẫn và ông T1 đã có đơn đề nghị giám định tâm thần đối với bà D1, cho thấy bà D1 không đủ điều kiện khởi kiện. Ngoài ra, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét Quyết định hoà giải thành từ năm 2001 nhưng không ai yêu cầu thi hành, không ai thắc mắc khiếu nại gì nên việc ông T1 yêu cầu cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vì bị thất lạc giấy chứng nhận là đúng pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của ông T1, sửa Bản án sơ thẩm, bác yêu cầu khởi kiện của bà D1.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm giải quyết vụ án:
Về tố tụng: Kể từ khi thụ lý vụ án đến thời điểm xét xử phúc thẩm, Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng các quy định của Luật tố tụng hành chính.
Về nội dung: Căn cứ vào Quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự năm 2001 có nội dung ông T1 có trách nhiệm tiến hành làm thủ tục chuyển tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất từ ông T1 sang cho bà D1 và hiện nay Quyết định này vẫn cón hiệu lực. Khi ông T1 làm thủ tục cấp phó bản giấy chứng nhận thì ông không cung cấp Quyết định công nhận thoả thuận nên UBND huyện CG không biết và cấp giấy chứng nhận cho ông T1. Như vậy, việc cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông T1 là không đúng pháp luật, vì vậy Toà án cấp sơ thẩm xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà D1 là có căn cứ, đúng pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo của ông T1, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa; Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:
[1] Đơn kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Võ Quốc T1 đúng về hình thức, nội dung và trong hạn luật định, đã nộp tiền tạm ứng án phí hành chính phúc thẩm nên kháng cáo của ông T1 là hợp lệ được Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm xét xử vụ án theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Về đối tượng khởi kiện, về thẩm quyền xét xử, về thời hiệu khởi kiện như nhận định của Tòa án cấp sơ thẩm là đúng quy định pháp Luật Tố tụng hành chính.
[3] Xét kháng cáo của ông Võ Quốc T1 đề nghị sửa án sơ thẩm, bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Võ Thị D1:
[3.1] Theo Quyết định số 95/DS-ST ngày 13/7/2001 của Tòa án nhân dân huyện CG đã quyết định: “Công nhận sự thỏa thuận giữa bà Võ Thị D1 và anh Võ Quốc T1. Anh Võ Quốc T1 thống nhất chuyển cho vợ chồng ông Lê Văn D1 và bà Võ Thị D1 đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất diện tích 11.110m2 đất tọa lạc tại ấp An Khương, xã An Thạnh Thủy, huyện CG do anh T1 đứng tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 02738/QSDĐ/03/QĐ.UB ngày 20/6/1997.
Vợ chồng ông Lê Văn D1 và bà Võ Thị D1 có trách nhiệm đến cơ quan có thẩm quyền làm thủ tục sang tên qua vợ chồng bà đứng tên khi quyết định có hiệu lực pháp luật” Xét Quyết định số 95/DS-ST ngày 13/7/2001 nêu trên không có kháng, không bị kháng nghị nên có hiệu lực pháp luật, đến ngày 15/02/2011 ông Võ Quốc T1 làm đơn cớ mất giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 02738/QSD/03/QĐ.UB, lý do bị thất lạc để xin cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng ông T1 đã gian dối khi không cung cấp Quyết định số 95/DS-ST nêu trên, do đó UBND huyện CG không biết được nội dung của Quyết định 95/DSTT nên ngày 22/9/2011 Ủy ban nhân dân Chợ Gạo đã ban hành Quyết định số 645/QĐ-UBND hủy bỏ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 02738 để cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Võ Quốc T1 03 thửa 612, 613, 615 cụ thể:
+ Thửa 612 diện tích 1.900m2, mục đích sử dụng là đất ONT, CLN, số vào sổ cấp giấy chứng nhận CH09458 cấp ngày 22/9/2011.
+ Thửa 613, diện tích 329m2, mục đích sử dụng là đất CLN, số vào sổ cấp giấy chứng nhận CH09457 cấp ngày 22/9/2011.
+ Thửa 615 diện tích 6.200m2, mục đích sử dụng là đất LUC, số vào sổ cấp giấy chứng nhận CH09459.
[3.2] Như vậy, việc cấp 3 giấy chứng nhận quyến sử dụng đất nêu trên của UBND huyện CG là không đúng đối tượng, không đúng quy định của Luật đất đai năm 2003 như nhận định của Toà án cấp sơ thẩm là có căn cứ. Do đó, Toà án cấp sơ thẩm xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Võ Thị D1 là đúng pháp luật. Tại phiên toà phúc thẩm, ông Võ Quốc T1 không cung cấp được chứng cứ gì mới có thể thay đổi được Quyết định của Bản án sơ thẩm nên Hội đồng xét xử phúc thẩm bác kháng cáo của ông Võ Quốc T1 và giữ nguyên Bản án sơ thẩm.
[6] Do kháng cáo không được chấp nhận nên ông T1 phải chịu tiền án phí hành chính phúc thẩm theo luật định.
[7] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát xét xử phúc thẩm đề nghị bác kháng cáo của ông T1 và giữ nguyên Bản án sơ thẩm là có căn cứ, được Hội đồng xét xử chấp nhận.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 203; Điều 220; khoản 1 Điều 241 Luật Tố tụng Hành chính. Căn cứ Luật đất đai năm 2003 và Luật đất đai năm 2013 Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 31 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Võ Quốc T1.
Giữ nguyên Bản án hành chính sơ thẩm số 41/2022/HC-ST ngày 24/10/2022 của Toà án nhân dân tỉnh Tiền Giang.
Tuyên xử:
1.Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Võ Thị D1:
2.Hủy Quyết định số 645/QĐ-UBND ngày 22/9/2011 của Ủy ban nhân dân huyện CG về việc hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 02738/QSDĐ/03/QĐ.UBND ngày 20/6/1997 cấp cho ông Võ Quốc T1.
3.Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho ông Võ Quốc T1, số vào sổ CH09458, thửa đất số 612, tờ bản đồ 01, diện tích 1.900m2, đất tại ấp An Khương, xã An Thạnh Thủy, huyện Chợ Gạo, Tiền Giang do Ủy ban nhân dân huyện CG cấp ngày 22/9/2011.
4.Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho ông Võ Quốc T1, số vào sổ CH09457, thửa đất số 613, tờ bản đồ 01, diện tích 329m2, đất tại ấp An Khương, xã An Thạnh Thủy, huyện Chợ Gạo, Tiền Giang do Ủy ban nhân dân huyện CG cấp ngày 22/9/2011.
5.Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho ông Võ Quốc T1, số vào sổ CH09459, thửa đất số 615, tờ bản đồ 01, diện tích 6.200m2, đất tại ấp An Khương, xã An Thạnh Thủy, huyện Chợ Gạo, Tiền Giang do Ủy ban nhân dân huyện CG cấp ngày 22/9/2011.
6.Về án phí hành chính sơ thẩm:
Ủy ban nhân dân huyện CG phải chịu 300.000 đồng án phí hành chính sơ thẩm. Hoàn lại bà Võ Thị D1 300.000 đồng tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0000090 ngày 21/02/2022 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Tiền Giang.
7. Về án phí hành chính phúc thẩm: Ông Võ Quốc T1 phải chịu 300.000 đồng. Khấu trừ số tiền tạm ứng án phí hành chính phúc thẩm 300.000 đồng ông T1 đã nộp tại biên lai số 0000375 ngày 28/10/2022 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Tiền Giang vào phần án phí phải chịu.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai số 467/2023/HC-PT
Số hiệu: | 467/2023/HC-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Ngày ban hành: | 27/06/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về