Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính số 155/2023/HC-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 155/2023/HC-PT NGÀY 16/03/2023 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH

Ngày 16 tháng 03 năm 2023, tại phòng xét xử số 5 trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số: 546/2022/TLPT-HC ngày 03 tháng 10 năm 2022, về việc “Khiếu kiện quyết định hành chính”. Do Bản án hành chính sơ thẩm số 1021/2022/HC-ST ngày 07 tháng 7 năm 2022 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 3109/2022/QĐPT-HC ngày 01 tháng 12 năm 2022, giữa các đương sự:

- Người khởi kiện: Bà Đỗ Thị Kh, sinh năm 1942 (vắng mặt).

Địa chỉ: 05 LS, Phường 2, quận TB, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Phan Thanh Th, sinh năm 1960; Địa chỉ: 28/15/12 Đường số 2, Phường 3, quận GV, Thành phố Hồ Chí Minh. (Theo Giấy ủy quyền số công chứng 00002806 ngày 02/10/2019 tại Văn phòng Công chứng Ngô Đức Nhàn, Thành phố Hồ Chí Minh, có mặt).

- Người bị kiện: Ủy ban nhân dân Thành phố TĐ, Thành phố Hồ Chí Minh; Địa chỉ: 168 Trương Văn Bang, phường TML, Thành phố TĐ, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện:

+ Ông Trần Tuấn Kh – Phó Trưởng Ban Bồi thường giải phóng mặt bằng Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).

+ Ông Phạm Hoàng Anh T – Phó Trưởng phòng tiếp dân – Ban Bồi thường giải phóng mặt bằng Thành phố TĐ (vắng mặt).

+ Ông Đinh Văn T - Nhân viên Phòng Nghiệp vụ 1 - Ban Bồi thường giải phóng mặt bằng Thành phố TĐ (vắng mặt).

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Ông Lưu Yến Ng, sinh năm 1933;

Địa chỉ: 05 LS, Phường 2, quận TB, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Phan Thanh Th, sinh năm 1960; Địa chỉ: 28/15/12 Đường số 2, Phường 3, quận GV, Thành phố Hồ Chí Minh. (Theo Giấy ủy quyền số công chứng 00002806 ngày 02/10/2019 tại Văn phòng Công chứng Ngô Đức Nhàn, Thành phố Hồ Chí Minh, có mặt)

- Người kháng cáo: Bà Đỗ Thị Kh là người khởi kiện.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và bản tự khai, người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện bà Đỗ Thị Kh và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Lưu Yến Ng là ông Phan Thanh Th trình bày:

Nhà đất mang số 21/6 đường 26, ấp BK 2, tọa lạc tại thửa 114, tờ số 01 (sơ đồ nền). Nay là thửa 74, tờ bản đồ số 12, phường BA, Quận 2 (nay là Thành phố TĐ). Nhà đất đã được Ủy ban nhân dân Quận 2 (sau đây viết tắt là UBND Quận 2) cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở cho ông bà Lưu Yến Ng – Đỗ Thị Kh ngày 16/6/2003. Có diện tích đất ở 1.217m2.

Để thực hiện Dự án Xây dựng kè chống sạt lở sông Sài Gòn. Ngày 24/12/2018, Ủy ban nhân dân Quận 2 (nay là Thành phố TĐ) ban hành Quyết định 6724/QĐ-UBND-TNMT để thu hồi 678,7m2 thuộc một phần thửa 74, tờ bản đồ số 12.

Ngày 21/01/2019, Ủy ban nhân dân Quận 2 (nay là Thành phố TĐ) ban hành Quyết định số 310/QĐ-UBND để bồi thường. Theo quyết định này áp giá bồi thường vị trí 3 (24.855.000 đồng/m2).

Đến ngày 03/01/2020, Ủy ban nhân dân Quận 2 (nay là Thành phố TĐ) lại ban hành Quyết định 40/QĐ-UBND. Quyết định này áp giá mức bồi thường ở vị trí 4 (21.341.000 đồng/m2).

Không đồng ý với mức giá này, nên bà Kh khiếu kiện các Quyết định 310/QĐ-UBND ngày 21/01/2019 và Quyết định 40/QĐ-UBND ngày 03/01/2020. Yêu cầu Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh hủy các quyết định nêu trên. Vì bà cho rằng nhà đất của bà phải áp giá mặt tiền đường 26.

Đặc điểm của nhà đất mang số 21/6 đường 26 có 02 lối đi. 01 lối đi do ông Võ Văn Ph chủ đất cũ dành cho ông bà Ng – Kh làm lối đi có chiều dài độ 13,5m và chiều rộng 1m để ra đường 26. Phần diện tích đất này không được ghi trong Giấy chứng nhận. Lối đi này được ông Ng xây dựng rào, lập cổng riêng từ ngày 03/12/2004. Trong quá trình sử dụng đất. Ông Ng có mở thêm 01 lối đi giữa khu đất. Lối đi này ra con hẻm đường 26.

Hiện trạng đất 02 lối đi này được thể hiện trong các văn bản như:

- Bản đồ hiện trạng vị trí để cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở do Chi nhánh Văn phòng Đăng ký Đất đai Quận 2 cung cấp cho Quý Tòa (BL 76-CNVPĐKĐĐQ2);

- Sơ đồ vẽ theo Biên bản khảo sát thực địa do Ban đền bù giải phóng mặt bằng quận, Phòng Tài nguyên và Môi trường quận, Ủy ban nhân dân phường BA, Quận 2, Ban Quản lý dự án các công trình giao thông Thành phố tiến hành kiểm tra, khảo sát thực địa lập ngày 03/9/2019.

- Theo Công văn số 456/UBND ngày 17/12/2019 của Ủy ban nhân dân phường BA, Quận 2 (nay là Thành phố TĐ) gửi Ủy ban nhân dân Quận 2 (nay là Thành phố TĐ) cũng thừa nhận thửa đất có 02 hướng ra đường 26.

- Bản vẽ hiện trạng vị trí – áp ranh do Trung tâm đo đạc bản đồ Sở Tài nguyên Môi trường Thành phố Hồ Chí Minh vẽ ngày 22/12/2021.

Như vậy, nhà đất mang số 21/6 đường 26 có 2 lối đi. 01 lối đi tiếp giáp đường 26 và 01 lối đi hẻm đường 26.

1.Về  quy  đnh của pháp luât:

Các Quyết định số 40/QĐ-UBND ngày 03 tháng 01 năm 2020 và Quyết định số 310/QĐ-UBND ngày 21/01/2019 của Ủy ban nhân dân Quận 2 (nay là Thành phố TĐ) cho rằng đất ông Ng bị thu hồi có vị trí 4 tiếp giáp hẻm ra đường 26 (độ rộng hẻm < 3m). Họ áp dụng pháp luật tùy tiện, không đúng quy định của pháp luật.

Bởi:

- Căn cứ Quyết định 02/2020/QĐ-UBND ngày 16/01/2020 của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Tại điểm a khoản 2 Điều 4 của Quy định Bảng giá đất kèm theo Quyết định này ghi rõ: Đối với đất phi nông nghiệp. Vị trí 1: “đất có vị trí mặt tiền đường áp dụng đối với các thửa đất, khu đất có ít nhất một mặt giáp với đường được quy định trong bảng giá đất”.

- Căn cứ Hướng dẫn số 4114/HDLCQ-TNMT-STC-SXD-CT ngày 28/5/2020 của liên cơ quan gồm Sở Tài nguyên Môi trường – Tài chính – Xây dựng – Cục thuế Thành phố Hồ Chí Minh. Tại điểm 1 Mục I quy định về đất ở như sau: “Việc xác định vị trí mặt tiền đường: Khu đất, thửa đất có vị trí mặt tiền đường phải có ít nhất một mặt giáp với lề đường (đường có tên trong Bảng giá đất ở). Việc xác định vị trí căn cứ vào thực tế, không phụ thuộc vào số thửa, địa chỉ của khu đất, thửa đất”.

Lưu ý:

- Luật quy định “căn cứ vào thực tế, không phụ thuộc số thửa, địa chỉ của khu đất, thửa đất”. Do đó, không thể nói phần đất làm lối đi ra đường 26 không được công nhận trong Giấy chứng nhận, không thuộc thửa 74, tờ bản đồ 12. Nên áp giá đền bù là hẻm.

- Luật quy định “Đất có vị trí mặt tiền đường áp dụng đối với các thửa đất, khu đất có ít nhất một mặt giáp với đường được quy định trong bảng giá đất”. Luật không quy định bề rộng của việc giáp với đường là bao nhiêu. Nên dù chiều rộng của lối đi là 1m. Vẫn được pháp luật xem là vị trí mặt tiền đường.

- Luật quy định “Đất có vị trí mặt tiền đường áp dụng đối với các thửa đất, khu đất có ít nhất một mặt giáp với đường được quy định trong bảng giá đất”. Nhà đất số 21/6 đường 26 dù thực tế có 02 lối đi. Trong đó, có 01 lối đi tiếp giáp với đường 26. Do đó, đất này là đất mặt tiền.

Áp dụng tương tự pháp luật.

Các tình tiết vụ án này tương tự pháp luật như vụ án ông Đỗ Minh Sơn khởi kiện hành chính với Ủy ban nhân dân quận Bình Thạnh. Vụ án được Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm ngày 25-10-2016. Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xử phúc thẩm đã sửa bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh. Tuyên hủy quyết định hành chính của Ủy ban nhân dân quận Bình Thạnh về việc bồi thường, hỗ trợ và giải phóng mặt bằng đối với căn nhà của ông Đỗ Minh Sơn.

Căn nhà 505D đường Nơ Trang Long, Phường 13, quận Bình Thạnh có lối đi tiếp giáp với lề đường Nơ Trang Long với bề rộng 0,5m lối đi quá hẹp không sử dụng được. Dù bề rộng hẹp Tòa án cấp phúc thẩm vẫn công nhận vị trí nhà đất 505D Nơ Trang Long có vị trí mặt tiền đường. Nên sửa án cấp sơ thẩm và tuyên hủy quyết định của Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh.

Kết luận:

Căn cứ Quy định ban hành kèm theo Quyết định số 02/2020/QĐ-UBND ngày 16 tháng 01 năm 2020 của Ủy ban nhân dân Thành phố.

Căn cứ Công văn số 4114/HDLCQ-TNMT-STC-SXD-CT ngày 28 tháng 5 năm 2020 của Sở Tài nguyên & Môi trường - Sở Tài chính - Cục Thuế - Sở Xây dựng thành phố Hồ Chí Minh hướng dẫn áp dụng Bảng giá các loại đất.

Theo quy định của các văn bản này. Khu đất, thửa đất có vị trí mặt tiền đường được xác định bởi địa chỉ hoặc số thửa trong bản đồ địa chính và là phần diện tích có ít nhất một mặt tiếp giáp với lề đường hiện hữu. Căn cứ để xác định vị trí thửa đất nhằm phục vụ công tác bồi thường là hiện trạng hiện hữu thực tế của thửa đất đó.

Căn cứ Bản đồ Hiện trạng vị trí để cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở do Chi nhánh Văn phóng Đăng ký Đất đai Quận 2 cung cấp cho Quý Tòa; sơ đồ vẽ theo Biên bản khảo sát thực địa do Ban đền bù giải phóng mặt bằng quận, Phòng Tài nguyên và Môi trường quận, Ủy ban nhân dân phường BA, Ban Quản lý dự án các công trình giao thông thành phố tiến hành kiểm tra, khảo sát thực địa lập ngày 03/9/2019.

Căn cứ Bản vẽ hiện trạng vị trí – Áp ranh do Trung tâm đo đạc bản đồ Sở Tài nguyên Môi trường Thành phố Hồ Chí Minh vẽ ngày 22/12/2020.

Căn cứ Bản vẽ hiện trạng hồ sơ thu hồi đất phục vụ công tác bồi thường thể hiện phần đất thu hồi là một phần thửa 74, tờ bản đồ số 12 (tức thửa 114, sơ đồ nền theo GCN).

Có cơ sở để công nhận nhà đất mang số 21/6 đường 26, phường BA, Quận 2 nay là Thành phố TĐ có lối đi hướng Đông Bắc tiếp giáp với đường 26. Có vị trí mặt tiền đường 26.

Người khởi kiện đề nghị Tòa án công nhận nhà đất mang số 21/6 đường 26 phường BA, Quận 2 nay là Thành phố TĐ có vị trí mặt tiền đường 26. Tuyên hủy các Quyết định số 40/QĐ-UBND ngày 03 tháng 01 năm 2020 và Quyết định số 310/QĐ-UBND ngày 21/01/2019 của Ủy ban nhân dân Quận 2 nay là Thành phố TĐ về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đối với một phần nhà, đất giải tỏa số 21/6 đường số 26, khu phố 2, phường BA.

Người bị kiện Ủy ban nhân dân Thành phố TĐ có văn bản số 2230/UBND-TNMT ngày 22/6/2020 ý kiến đối với đơn khởi kiện.

1. Hồ sơ bồi thường, hỗ trợ:

Vị trí giải tỏa căn nhà (thửa đất) số: 21/6 đường số 26, khu phố 2 (thuộc một phần thửa 74 và một phần sông, tờ bản đồ số 12 theo tài liệu bản đồ địa chính năm 2002), phường BA, quận 2 do ông (bà) Lưu Yến Ng - Đỗ Thị Kh là chủ sử dụng thuộc dự án xây dựng kè chống sạt lở sông Sài Gòn, bờ trái, hạ lưu, cách cầu Sài Gòn 500m, Quận 2.

Diện tích giải tỏa: 678,70 m² - Hiện trạng giải tỏa: Một phần.

Ngày 10/12/2018, Ủy ban nhân dân phường BA có Giấy xác nhận hồ sơ pháp lý nhà, đất số 63/UBND-XN đối với ông (bà) Lưu Yến Ng - Đỗ Thị Kh như sau:

“Nguồn gốc, quá trình sử dụng đất:

Ngày 16/6/2003, Ủy ban nhân dân quận 2 cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 822/2003 cho ông (bà) Lưu Yến Ng - Đỗ Thị Kh với diện tích 1.217m².

Theo bản vẽ hiện trạng vị trí phục vụ công tác bồi thường giải phóng mặt bằng do Công ty TNHH Địa kỹ thuật Tân Miền Trung lập ngày 01/6/2018, đã được Công chức Địa chính – Xây dựng thuộc Ủy ban nhân dân phường BA kiểm tra nội nghiệp ngày 05/6/2018 với diện tích đất bị giải tỏa là 678,70m², trong đó:

- 457,50m² đã được Ủy ban nhân dân quận 2 cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 822/2003.

- 2,20m² không được cấp Giấy chứng nhận, là đất thuộc khuôn viên căn nhà số 21/6 nêu trên, không tranh chấp, không lấn chiếm.

- 219m² thuộc sông theo tài liệu bản đồ địa chính năm 2002. Hiện trạng đất trống do ông (bà) Lưu Yến Ng - Đỗ Thị Kh san lấp sau năm 2003 trước ngày 01/7/2004.

Nguồn gốc, quá trình sử dụng nhà:

Căn nhà số 21/6 đường số 26, khu phố 2, phường BA, Quận 2 đã được Ủy ban nhân dân quận 2 cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 822/2003 ngày 16/6/2003 cho ông (bà) Lưu Yến Ng - Đỗ Thị Kh với diện tích 69,30m².

Theo bản vẽ hiện trạng vị trí phục vụ công tác bồi thường giải phóng mặt bằng do Công ty TNHH Địa kỹ thuật Tân Miền Trung lập ngày 01/6/2018, đã được Công chức Địa chính – Xây dựng thuộc Ủy ban nhân dân phường BA kiểm tra nội nghiệp ngày 05/6/2018 với diện tích xây dựng là 35,20m² (không được cấp GCN) xây dựng thêm năm 2003.

Tài sản gắn liền với đất:

Theo bản vẽ hiện trạng vị trí phục vụ công tác bồi thường giải phóng mặt bằng do Công ty TNHH Địa kỹ thuật Tân Miền Trung lập ngày 01/6/2018 thể hiện bờ kè bê tông cao 1,5m diện tích 62m² do ông (bà) Lưu Yến Ng - Đỗ Thị Kh tạo lập sau năm 2003 trước ngày 01/7/2004 và sử dụng cho đến nay”.

Ngày 24/12/2018, Hội đồng bồi thường dự án lập phương án chiết tính số 05/BA đối với ông (bà) Lưu Yến Ng - Đỗ Thị Kh như sau:

1. Bồi thường, hỗ trợ về đất:

- Đất ở đã được cấp Giấy chứng nhận (hẻm vị trí 3 đoạn từ nhà số 25 đến sông Sài Gòn):

457,50m² x 24.855.000 đồng/m² x 100% = 11.371.162.500 đồng.

- Đất chưa được cấp Giấy chứng nhận (vị trí không mặt tiền) 2,20m² x 4.000.000 đồng/m² x 100% = 8.800.000 đồng.

- Sông theo tài liệu bản đồ địa chính năm 2002, san lấp sử dụng sau năm 2003 đến trước 01/7/2004:

219,00m² x 190.000 đồng/m² x 80% x 50% = 16.644.000 đồng.

2. Bồi thường, hỗ trợ công trình xây dựng, vật kiến trúc: 69.392.145 đồng.

3. Bồi thường thiệt hại về trang thiết bị: 0 đồng.

4. Bồi thường cây trồng, hoa màu: 14.774.087 đồng.

5. Hỗ trợ khác: 0 đồng.

Tổng giá trị bồi thường, hỗ trợ thiệt hại: 11.480.772.732 đồng. Về tái định cư: Không đủ điều kiện tái định cư.

Ngày 21/01/2019, Ủy ban nhân dân quận 2 ban hành Quyết định số 310/QĐ-UBND về việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đối với ông (bà) Lưu Yến Ng - Đỗ Thị Kh với tổng số tiền là 11.480.772.732 đồng. Về tái định cư: Không đủ điều kiện tái định cư.

Ngày 03/9/2019, Tổ công tác có lập biên bản xác minh thực địa tại vị trí giải tỏa căn nhà 21/6, đường số 26, khu phố 2, phường BA, quận 2 do ông Lưu Yến Ng và bà Đỗ Thị Kh là chủ sử dụng: xác định vị trí giải tỏa thuộc vị trí 4 (hẻm rộng dưới 3m) đường 25 và đường 26.

Ngày 11/9/2019, Ủy ban nhân dân phường BA có Công văn số 254/UBND theo đó điều chỉnh vị trí giải tỏa số 21/6, đường số 26, khu phố 2, phường BA, quận 2 của ông (bà) Lưu Yến Ng - Đỗ Thị Kh từ vị trí 3 thành vị trí 4 (hẻm rộng dưới 3m).

Ngày 03/10/2019, Hội đồng bồi thường dự án lập phương án chiết tính điều chỉnh số 05/BA-ĐC đối với ông (bà) Lưu Yến Ng - Đỗ Thị Kh như sau:

1. Bồi thường, hỗ trợ về đất được điều chỉnh:

- Đất ở đã được cấp Giấy chứng nhận (vị trí 4, đường số 25, đường số 26):

457,50m² x 21.341.000 đồng/m² x 100% = 9.763.507.500 đồng.

- Đất chưa được cấp Giấy chứng nhận (vị trí không mặt tiền) 2,20m² x 4.000.000 đồng/m² x 100% = 8.800.000 đồng.

- Sông theo tài liệu BẢN ĐỒ ĐỊA CHÍNH năm 2002, san lấp sử dụng sau năm 2003 đến trước 01/7/2004:

219,00m² x 190.000 đồng/m² x 80% x 50% = 16.644.000 đồng.

2. Bồi thường, hỗ trợ công trình xây dựng, vật kiến trúc: 69.392.145 đồng.

3. Bồi thường thiệt hại về trang thiết bị: 0 đồng.

4. Bồi thường cây trồng, hoa màu: 14.774.087 đồng.

5. Hỗ trợ khác: 0 đồng.

Tổng giá trị bồi thường, hỗ trợ thiệt hại: 9.873.117.732 đồng. Về tái định cư: Không đủ điều kiện tái định cư.

Ngày 03/01/2020, Ủy ban nhân dân Quận 2 ban hành Quyết định số 40/QĐ-UBND về điều chỉnh nội dung Điều 1 Quyết định số 310/QĐ-UBND ngày 21/01/2019 của Ủy ban nhân dân Quận 2 với tổng số tiền là 9.873.117.732 đồng. Về tái định cư: Không đủ điều kiện tái định cư (Các nội dung khác của Quyết định 310/QĐ-UBND ngày 21/01/2019 giữ nguyên, không thay đổi).

Ngày 05/5/2020, Hội đồng bồi thường giải phóng mặt bằng dự án đã gửi toàn bộ số tiền bồi thường, hỗ trợ đối với ông (bà) Lưu Yến Ng - Đỗ Thị Kh là:

9.873.117.732 đồng vào Kho bạc Nhà nước quận 2 theo qui định.

2. Ý kiến của Ủy ban nhân dân Quận 2:

a. Về căn cứ pháp lý áp dụng chính sách đối với người dân có nhà, đất nằm trong phạm vi dự án:

- Quyết định số 3525/QĐ-UBND ngày 05/7/2017 của Ủy ban nhân dân thành phố về quyết định chủ trương đầu tư các dự án đầu tư công nhóm C (trong đó có dự án xây dựng kè chống sạt lở sông Sài Gòn, bờ trái, hạ lưu, cách cầu Sài Gòn 500m);

- Quyết định số 28/2018/QĐ-UBND ngày 09/8/2018 của Ủy ban nhân dân thành phố Quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh;

- Quyết định số 5717/QĐ-UBND ngày 13/12/2018 của Ủy ban nhân dân thành phố về phê duyệt hệ số điều chỉnh giá đất để tính bồi thường, hỗ trợ của dự án xây dựng kè chống sạt lở sông Sài Gòn, bờ trái, hạ lưu, cách cầu Sài Gòn 500m, Quận 2;

- Quyết định số 5089/QĐ-SGTVT ngày 30/10/2015 và Quyết định số 3781/QĐ-SGTVT ngày 28/7/2017 của Sở Giao thông Vận tải về phê duyệt Báo cáo nghiên cứu khả thi và phê duyệt điều chỉnh dự án đầu tư xây dựng kè chống sạt lở sông Sài Gòn, bờ trái, hạ lưu, cách cầu Sài Gòn 500m;

- Quyết định 6753/QĐ-UBND ngày 24/12/2018 của Ủy ban nhân dân Quận 2 về duyệt chính sách (phương án) bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất thực hiện dự án xây dựng kè chống sạt lở sông Sài Gòn, bờ trái, hạ lưu, cách cầu Sài Gòn 500m trên địa bàn phường BA, Quận 2 do Khu Quản lý đường thủy nội địa làm chủ đầu tư (Chính sách số 315/CSBT-HĐBT ngày 24/12/2018 của Hội đồng bồi thường, hỗ trợ, tái định cư dự án);

- Quyết định số 6724/QĐ-UBND-TNMT ngày 24/12/2018 của Ủy ban nhân dân quận 2 về thu hồi đất để thực hiện dự án xây dựng kè chống sạt lở sông Sài Gòn, bờ trái, hạ lưu, cách cầu Sài Gòn 500m tại phường BA, Quận 2;

b. Về nội dung yêu cầu của người khởi kiện:

Việc bà Đỗ Thị Kh yêu cầu hủy Quyết định số 310/QĐ-UBND ngày 21/01/2019 và Quyết định số 40/QĐ-UBND ngày 03/01/2020 của Ủy ban nhân dân quận 2 là không có cơ sở giải quyết, bởi:

Theo Giấy xác nhận hồ sơ pháp lý nhà, đất số 63/UBND-XN ngày 10/12/2018, Công văn số 254/UBND về điều chỉnh vị trí giải tỏa của Ủy ban nhân dân phường BA và Bản vẽ hiện trạng vị trí phục vụ công tác bồi thường giải phóng mặt bằng do Công ty TNHH Địa kỹ thuật Tân Miền Trung lập ngày 01/6/2018.

- Đối với phần diện tích 457,50m² đã được cấp Giấy chứng nhận:

Căn cứ tại điểm 4.1, Khoản 4, Mục I, phần B Phương án 315/CSBT- HĐBT ngày 24/12/2018 của Hội đồng bồi thường dự án xây dựng kè chống sạt lở sông Sài Gòn, bờ trái, hạ lưu, cách cầu Sài Gòn 500m tại phường BA, Quận 2 quy định:

4. Giá đất để tính bồi thường:

4.1. Đơn giá đất để tính bồi thường:

- Đối với đất ở:

Hẻm xi măng vị trí 4 (rộng <3m) - Đường số 25 (đoạn từ đường số 29 đến cuối đường) là: 21.341.000 đồng/m2.

- Đối với phần diện tích 2,20m² không được cấp giấy chứng nhận:

Căn cứ tại điểm 14.6, Khoản 14 và điểm 4.1, Khoản 4, Mục I, phần B Phương án 315/CSBT-HĐBT ngày 24/12/2018 của Hội đồng bồi thường dự án xây dựng kè chống sạt lở sông Sài Gòn, bờ trái, hạ lưu, cách cầu Sài Gòn 500m tại phường BA, quận 2 quy định:

“14.6. Phần diện tích đất vườn, ao còn lại sau khi đã xác định diện tích đất ở theo quy định tại các Điểm 14.2, 14.3, 14.4 và 14.5 Khoản này thì được xác định sử dụng vào mục đích hiện trạng đang sử dụng theo quy định tại Khoản 1 Điều 10 của Luật Đất đai năm 2013.

4. Giá đất để tính bồi thường:

4.1. Đơn giá đất để tính bồi thường:

- Đối với đất nông nghiệp:

Không mặt tiền đường – Khu vực 1, vị trí 1, phường BA, Quận 2 là:

4.000.000 đồng/m²”.

- Đối với phần diện tích 219m² thuộc sông theo tài liệu BẢN ĐỒ ĐỊA CHÍNH năm 2002 san lấp sau năm 2003 trước ngày 01/7/2004:

Căn cứ tại điểm 19.4, Khoản 19, Mục I, phần B Phương án 315/CSBT- HĐBT ngày 24/12/2018 của Hội đồng bồi thường dự án xây dựng kè chống sạt lở sông Sài Gòn, bờ trái, hạ lưu, cách cầu Sài Gòn 500m tại phường BA, Quận 2 quy định:

19.4.Trường hợp đất có nguồn gốc là sông, ngòi, kênh, rạch, suối và mặt nước chuyên dùng đã lấn, chiếm và tự chuyển mục đích sử dụng đất thì xử lý như sau:

a) Trường hợp có nguồn gốc là rạch nhánh, len lỏi trong các khu dân cư, không thuộc danh mục quản lý của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và việc san lấp không làm ảnh hưởng đến việc tiêu thoát nước của khu vực thì tính hỗ trợ theo Quy định tại Tiết a và c Điểm 19.2 Khoản này.

b) Các trường hợp khác:

- Nếu giải tỏa toàn bộ: Tính hỗ trợ với mức bằng 80% mức hỗ trợ theo Quy định tại Tiết a Điểm này.

- Nếu giải tỏa một phần: Tính hỗ trợ với mức bằng 50% mức hỗ trợ theo quy định tại Tiết a Điểm này”.

Do đó, việc Ủy ban nhân dân Quận 2 ban hành các Quyết định nêu trên là đúng theo chính sách và phù hợp theo quy định của pháp luật. Ủy ban nhân dân quận 2 giữ nguyên các Quyết định nêu trên.

Tại bản án hành chính sơ thẩm số 1021/2022/HC-ST ngày 07 tháng 7 năm 2022 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, đã quyết định:

Căn cứ các Điều 3, Điều 32, Điều 116, Điều 123, Điều 143, Điều 157, Điều 193, Điều 194 và Điều 206 Luật tố tụng hành chính năm 2015; Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Đỗ Thị Kh: Bác yêu cầu tuyên bố hủy Quyết định số 40/QĐ-UBND ngày 03 tháng 01 năm 2020 và Quyết định số 310/QĐ-UBND ngày 21/01/2019 của Ủy ban nhân dân Quận 2.

Ngoài ra án sơ thẩm còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự theo định.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 18/7/2022, người khởi kiện là bà Đỗ Thị Kh có đơn kháng cáo bản án sơ thẩm. Lý do kháng cáo: Tòa sơ thẩm áp dụng pháp luật không đúng, gây oan ức cho người khởi kiện; bởi:

1. Nhà đất mang số 21/6 đường 26, phường BA, Quận 2 là nhà có vị trí mặt tiền đường 26; người khởi kiện bị thu hồi một phần theo các Quyết định số 40/QĐ-UBND ngày 03/01/2020 và Quyết định số 310/QĐ-UBND ngày 21/01/2019 của Ủy ban nhân dân Quận 2; Diện tích bị thu hồi là 457,5m2; Nhà, đất đã được Ủy ban nhân dân Quận 2 cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở từ năm 2003.

Đặc điểm đất bị thu hồi có 02 lối đi; lối đi trực tiếp ra đường 26 có bề rộng 1m và có lối đi ra hẻm 26.

Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 4 của Quy định Bảng giá đất kèm theo Quyết định 02/2020/QĐ-UBND ngày 16/01/2020 của Ủy ban nhân dân Thành phố Hòo Chí Minh; đối với đất phi nông nghiệp; vị trí 1 “Đất có vị trí mặt tiền đường áp dụng đối với các thửa đất, khu đất có ít nhất một mặt giáp với đường được quy định trong bảng giá đất”. Dù nhà đất mang số 21/6 đường 26 thỏa mãn các điều kiện nêu trên nhưng Tòa sơ thẩm bác yêu cầu khởi kiện của bà Kh.

2. Áp dụng tương tự pháp luật: Các tình tiết vụ án này tương tự pháp luật như vụ án ông Đỗ Minh Sơn khởi kiện Ủy ban nhân dân Quận Bình Thạnh. Vụ án được Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm ngày 25/10/2016. Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh về việc bồi thường, hỗ trợ và giải phóng mặt bằng đối với căn nhà của ông Đỗ Minh Sơn.

Căn nhà 505D đường Nơ Trang Long, Phường 13, quận Bình Thạnh có lối đi tiếp giáp với lề đường Nơ Trang Long là 0,5m lối đi quá hẹp không sử dụng được; dù bề rộng hẹp Tòa án cấp phúc thẩm vẫn công nhận vị trí nhà 505D Nơ Trang Long có vị trí mặt tiền đường. Nên sửa án cấp sơ thẩm và tuyên hủy quyết định của UBND quận Bình Thạnh.

Vì thế, người khởi kiện kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm, hủy Quyết định số 40/QĐ-UBND ngày 03 tháng 01 năm 2020 và Quyết định số 310/QĐ-UBND ngày 21/01/2019 của Ủy ban nhân dân quận 2 về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đối với một phần nhà, đất giải tỏa số 21/6 đường 26, khu phố 2, phường BA, Quận 2.

Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay:

Người kháng cáo bà Đỗ Thị Kh; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Lưu Yến Ng do ông Phan Thanh Th làm đại diện hợp pháp trình bày: Giữ nguyên lý do và yêu cầu kháng cáo của bà Đỗ Thị Kh như nêu trên; yêu cầu Hội đồng xét xử sửa án sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Kh, hủy Quyết định số 40/QĐ-UBND ngày 03/01/2020 và Quyết định số 310/QĐ-UBND ngày 21/12/2019 của Ủy ban nhân dân Quận 2 (nay là Thành phố TĐ).

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, phát biểu quan điểm giải quyết vụ án:

Thông qua kiểm sát việc giải quyết vụ án, từ khi thụ lý đến thời điểm hiện nay thấy rằng Thẩm phán; Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng đã chấp hành đúng quy định của Luật tố tụng hành chính, không có vi phạm.

Về nội dung: Tòa sơ thẩm tại phần nhận định đã phân tích, xem xét, đánh giá toàn diện, đầy đủ chứng cứ nên quyết định của Tòa cấp sơ thẩm là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật. Tại cấp phúc thẩm không có căn cứ nào mới, nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của người khởi kiện, giữ nguyên án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, kết quả tranh tụng tại phiên tòa và ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1] Tòa sơ thẩm xét xử và tuyên án ngày 07 tháng 7 năm 2022 đến ngày 18 tháng 7 năm 2022 người khởi kiện có đơn kháng cáo nên kháng cáo của người khởi kiện là còn trong hạn luật định và hợp lệ được xem xét tại cấp phúc thẩm theo quy định tại Điều 206 Luật tố tụng hành chính năm 2015.

Người bị kiện là Ủy ban nhân dân Thành phố TĐ đã có văn bản đề nghị xét xử vắng mặt; người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện vắng mặt lần 2 không lý do, nên Hội đồng xét xử căn cứ Điều 225 Luật tố tụng hành chính tiến hành xét xử vắng mặt người bị kiện.

[2] Về quan hệ pháp luật tranh chấp, thẩm quyền giải quyết và thời hiệu khởi kiện Tòa sơ thẩm xác định là đúng quy định tại Điều 3, Điều 30; Điều 32 và Điều 116 của Luật tố tụng hành chính 2015.

[3] Đối với kháng cáo của bà Đỗ Thị Kh:

[3.1] Xét, Quyết định số 40/QĐ-UBND ngày 03 tháng 01 năm 2020 và Quyết định số 310/QĐ-UBND ngày 21/01/2019 của Ủy ban nhân dân Quận 2 (nay là thành phồ Thủ Đức).

- Hồ sơ vụ án thể hiện:

Theo Giấy xác nhận tình trạng pháp lý nhà đất số 63/UBND-XN ngày 10/12/2018 thể hiện:

+ Về nguồn gốc đất:

Ngày 16/6/2003, Ủy ban nhân dân Quận 2 (nay là Thành phố TĐ) cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyển sử dụng đất ở số 822/2003 cho ông/bà Lưu Yến Ng - Đỗ Thị Kh với diện tích 1.217m2.

Theo bản vẽ hiện trạng vị trí phục vụ công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng do Công ty TNHH Địa kỹ thuật Tân Miền Trung lập ngày 01/6/2018 đã được Công chức Địa chính - Xây dựng thuộc Ủy ban nhân dân phường BA kiểm tra nội nghiệp ngày 05/6/2018 với diện tích đất bị giải tỏa là 678,7m2, trong đó:

- 457,5m2 đã được Ủy ban nhân dân Quận 2 (nay là Thành phố TĐ) cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 822/2003;

- 2,2m2 không được cấp giấy chứng nhận là đất thuộc khuôn viên căn nhà số 21/6 nêu trên, không tranh chấp, không lấn chiếm;

- 219m2 thuộc sông theo tài liệu bản đồ địa chính năm 2002. Hiện trạng đất trống do ông/bà Lưu Yến Ng - Đỗ Thị Kh san lấp sau năm 2003 trước ngày 01/7/2004.

+ Về nguồn gốc, quá trình sử dụng nhà: Căn nhà số 21/6 đường số 26, khu phố 2, phường BA, Quận 2 (nay là Thành phố TĐ) đã được Ủy ban nhân dân Quận 2 (nay là Thành phố TĐ) cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 822/2003 ngày 16/6/2003 cho ông/bà Lưu Yến Ng - Đỗ Thị Kh với diện tích 69,3m2.

Theo bản vẽ hiện trạng vị trí phục vụ công tác bồi thường giải phóng mặt bằng do Công ty TNHH Địa kỹ thuật Tân Miền Trung lập ngày 01/6/2018 đã được Công chức Địa chính-Xây dựng thuộc Ủy ban nhân dân phường BA kiểm tra nội nghiệp ngày 05/6/2018 với diện tích xây dựng là 35,2m2 (không được cấp GCN) xây dựng thêm năm 2003.

- Về tài sản gắn liền với đất: Theo bản vẽ hiện trạng vị trí phục vụ công tác bồi thường giải phóng mặt bằng do Công ty TNHH Địa kỹ thuật Tân Miền Trung lập ngày 01/6/2018 thể hiện bờ kè bê tông cao 1,5m diện tích 62m2 do ông/bà Lưu Yến Ng - Đỗ Thị Kh tạo lập sau năm 2003 trước ngày 01/7/2004 và sử dụng cho đến nay.

Ngày 24/12/2018, Hội đồng bồi thường dự án lập Phương án chiết tính số 05/BA đối với ông/bà Lưu Yến Ng - Đỗ Thị Kh. Tổng số tiền bồi thường, hỗ trợ là 11.480.772.732 đồng theo đơn giá bồi thường vị trí 3.

Ngày 21/01/2019, Ủy ban nhân dân Quận 2 (nay là Thành phố TĐ) ban hành Quyết định số 310 về việc bồi thường, hỗ trợ đối với ông Lưu Yến Ng, bà Đỗ Thị Kh số tiền theo Phương án chiết tính nêu trên.

Tuy nhiên, ngày 03/9/2019, Tổ công tác có lập biên bản xác minh thực địa tại vị trí giải tỏa căn nhà 21/6 đường số 26, khu phố 2 phường BA, Quận 2 (nay là Thành phố TĐ) do ông Lưu Yến Ng, bà Đỗ Thị Kh sử dụng; xác định vị trí giải tỏa thuộc vị trí 4 (hẻm rộng dưới 3m đường 25 và đường 26. Vì vậy, ngày 11/9/2019, Ủy ban nhân dân phường BA có Công văn số 254/UBND theo đó điều chỉnh vị trí bị giải tỏa từ vị trí 3 thành vị trí 4 (hẻm dưới 3m).

Ngày 03/10/2019, Hội đồng bồi thường dự án lập phương án chiết tính số 05/BA–ĐC bồi thường hỗ trợ theo vị trí 4 tổng số tiền 9.873.117.732 đồng.

Ngày 03/01/2020, Ủy ban nhân dân Quận 2 (nay là Thành phố TĐ) ban hành Quyết định số 40/QĐ-UBND về điều chỉnh nội dung Điều 1 Quyết định số 310/QĐ-UBND ngày 21/01/2019 của Ủy ban nhân dân Quận 2 (nay là Thành phố TĐ) với tổng số tiền là 9.873.117.732 đồng. Về tái định cư không đủ điều kiện tái định cư (các nội dung khác của Quyết định 310/QĐ-UBND ngày 21/01/2019 giữ nguyên, không thay đổi).

Theo Công văn số 1405/TTĐĐBĐ ngày 02/12/2021 của Trung tâm Đo đạc bản đồ về việc phúc đáp văn bản của Tòa án thể hiện: Theo tài liệu 299/TTg thì vị trí khu đất tiếp giáp sông Sài Gòn và rạch, không thể hiện đường. Theo tài liệu Bản đồ địa chính năm 2003 thì tại vị trí khu đất đã hình thành đường hẻm thông ra đường số 26 hướng Đông Bắc khu đất.

Do đó, Ủy ban nhân dân Thành phố TĐ bồi thường phần diện tích 457,5m2 đã được cấp Giấy chứng nhận theo quy định tại điểm 4.1, khoản 4, mục I, phần B Phương án số 315/CSBT-HĐBT ngày 24/12/2018 của Hội đồng bồi thường dự án xây dựng kè chống sạt lở sông Sài Gòn, bờ trái, hạ lưu, cách cầu Sài Gòn 500m tại phường BA, Quận 2 hẻm xi măng vị trí 4, đường số 25, đường số 26 theo đơn giá 21.341.000 đồng/m2 là đúng quy định.

[3.2] Xét yêu cầu của người khởi kiện:

Bà Kh yêu cầu bồi thường diện tích đất ở bị thu hồi diện tích 457,5m2 theo đơn giá vị trí 1 giá 37.968.840 đồng/m2 của đường 26 vì đất của bà có một mặt tiếp giáp với đường 26 là không có cơ sở vì:

Căn cứ Biên bản thỏa thuận ngày 03/12/2004 của ông Võ Văn Ph và ông Lưu Yến Ng thì ông Phượng cho mượn lối đi ngang 1m để làm lối đi ra đường 26.

Tại phiên tòa đại diện người khởi kiện cũng thừa nhận lối đi có chiều rộng 01m dài 13,5m tiếp giáp mặt tiền đường 26.

Ngoài ra, nhà bà Kh có lối đi khác ra đường 26 cũng có chiều rộng dưới 3m.

Tại thời điểm xác định vị trí đất làm căn cứ bồi thường, hỗ trợ thì quy định về giá các loại đất trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh áp dụng từ ngày 01 tháng 01 năm 2015 đến ngày 31 tháng 12 năm 2019 (Ban hành kèm theo Quyết định số 51/2014/QĐ-UBND ngày 31/12/2014 của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đang có hiệu lực pháp luật). Căn cứ khoản 2 Điều 4 của quy định trên về phân loại đối với đất phi nông nghiệp thì:

a) Vị trí 1: Đất có vị trí mặt tiền đường áp dụng đối với các thửa đất, khu đất có ít nhất một mặt giáp với đường được quy định trong bảng giá đất.

b) Các vị trí tiếp theo không tiếp giáp mặt tiền đường bao gồm:

- Vị trí 2: Áp dụng đối với các thửa đất, khu đất có ít nhất một mặt tiếp giáp với hẻm có độ rộng từ 5m trở lên thì tính bằng 0,7 của vị trí 1.

- Vị trí 3: Áp dụng đối với các thửa đất, khu đất có ít nhất một mặt tiếp giáp với hẻm có độ rộng từ 3m đến dưới 5m thì tính bằng 0,8 của vị trí 2.

- Vị trí 4: Áp dụng đối với các thửa đất, khu đất có những vị trí còn lại tính bằng 0,8 của vị trí 3.

Xét vị trí đất của bà Kh bị thu hồi có hai lối đi ra đường 26 có chiều rộng dưới 3m, nên được xác định là vị trí 4 đơn giá bồi thường 21.341.000 đồng/m2. Bà Kh yêu cầu xác định đất của bà bị thu hồi thuộc vị trí 1 đường 26 với đơn giá bồi thường 37.969.000 đồng/m2 là không có cơ sở.

- Đối với kháng cáo của người khởi kiện yêu cầu xem xét áp dụng tương tự pháp luật đối với Bản án phúc thẩm ngày 25/10/2016 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh trong việc giải quyết đối với căn nhà của ông Đỗ Minh Sơn tại số 505D đường Nơ Trang Long, Phường 13, quận Bình Thạnh cũng là không có căn cứ, do đây không phải là án lệ và thời điểm áp dụng pháp luật của mỗi giai đoạn là khác nhau, vụ án cụ thể cũng khác nhau nên Tòa sơ thẩm không xem xét cũng là đúng quy định của pháp luật.

[3.3] Từ những viện dẫn nêu trên Tòa sơ thẩm bác yêu cầu khởi kiện của bà Đỗ Thị Kh về yêu cầu hủy Quyết định số 40/QĐ-UBND ngày 03 tháng 01 năm 2020 và Quyết định số 310/QĐ-UBND ngày 21/01/2019 của Ủy ban nhân dân Quận 2 (nay là thành phồ Thủ Đức) là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật. Tại cấp phúc thẩm không có căn cứ nào mới làm căn cứ xem xét sửa án sơ thẩm, nên Hội đồng xét xử thống nhất với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, bác kháng cáo của người khởi kiện, giữ nguyên án sơ thẩm.

[4] Về án phí hành chính phúc thẩm: Bà Đỗ Thị Kh là người cao tuổi nên được miễn án phí hành chính phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 241, các Điều 3, Điều 32, Điều 116, Điều 123, Điều 143, Điều 157, Điều 193, Điều 194 và Điều 206 Luật tố tụng hành chính năm 2015; Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Không chấp nhận kháng cáo của người khởi kiện bà Đỗ Thị Kh; giữ nguyên Bản án hành chính sơ thẩm số 1021/2022/HC-ST ngày 07 tháng 7 năm 2022 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

2. Bác các yêu cầu khởi kiện bà Đỗ Thị Kh, về yêu cầu hủy Quyết định số 40/QĐ-UBND ngày 03 tháng 01 năm 2020 và Quyết định số 310/QĐ-UBND ngày 21/01/2019 của Ủy ban nhân dân Quận 2 (nay là Thành phố TĐ), Thành phố Hồ Chí Minh.

3. Về án phí hành chính sơ thẩm và án phí hành chính phúc thẩm: Bà Đỗ Thị Kh được miễn toàn bộ án phí sơ thẩm và phúc thẩm.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

164
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính số 155/2023/HC-PT

Số hiệu:155/2023/HC-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hành chính
Ngày ban hành: 16/03/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về