Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực đất đai số 107/2022/HC-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 107/2022/HC-PT NGÀY 08/04/2022 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC ĐẤT ĐAI

Ngày 8 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, xét xử phúc thẩm công khai vụ án Hành chính thụ lý số 176/2021/TLPT-HC ngày 8/4/2021 về việc “Khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực đất đai”.

Do Bản án Hành chính sơ thẩm số 219/2020/HCST ngày 17/9/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội bị kháng cáo. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 2264/2022/QĐ-PT ngày 21/3/2022 giữa các đương sự:

1. Người khởi kiện: Ông Nguyễn Như A1, sinh năm 1975; Địa chỉ:

Xóm 2, thôn ĐC, xã TV, huyện ML, Hà Nội; có mặt.

Ngưi bảo vệ quyền và lợi ích cho Người khởi kiện: Luật sư Trần Xuân A2, Vũ Anh A3 - Công ty Luật TNHH TL, Đoàn luật sư thành Phố Hà Nội, có mặt.

2. Người bị kiện:

2.1. Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Trọng A4, chức vụ: Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội (Văn bản ủy quyền số 108/UBND- UQ ngày 17/5/2021); có đơn xin xét xử vắng mặt.

2.2. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện ML.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Trần Thanh A5, chức vụ: Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện ML (Văn bản ủy quyền số 03/UBND-UQ ngày 13/3/2020); có đơn xin xử vắng mặt.

3 Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

3.1. Uỷ ban nhân dân xã TV, huyện ML, Hà Nội.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Trần Văn A6, chức vụ Phó Chủ tịch UBND xã TV (Văn bản ủy quyền số 150/UBND ngày 06/08/2020);

3.2. Bà Nguyễn Thị Kim A7, sinh năm 1965; Địa chỉ: Số 786 tổ 32 khu 7, phường TM, thành phố VT, tỉnh Phú Thọ; có mặt.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Lê Huy A8, sinh năm 1975; địa chỉ: căn hộ 521 CT, Lô M, Yên Xá, TT,TT1, Hà Nội; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Thửa đất bà Nguyễn Thị Kim A7 khiếu nại, đòi quyền sử dụng thuộc thửa đất số 229, tờ bản đồ số 01 diện tích 343 m2 (nay thuộc thửa đất số 06, tờ bản đồ số 08 diện tích 339 m2) thôn ĐC, xã TV, huyện ML, thành phố Hà Nội) hiện do gia đình ông Nguyễn Như A1 đang sử dụng có nguồn gốc của ông cha để lại cho ông Nguyễn Như A8 và bà Hoàng Thị A9 (ông bà nội bà A7). Ông A8 mất năm 1957, bà A9 mất năm 1964 ; ông A8 bà A9 sinh được một người con là ông Nguyễn Như A10. Năm 1952, ông Nguyễn Như A10 kết hôn với bà Đàm Thị A11 tiếp tục sinh sống tại thửa đất trên. Năm 1965, ông A10 và bà A11 sinh được một người con duy nhất là bà Nguyễn Thị Kim A7. Năm 1967, ông Nguyễn Như A10 hy sinh tại chiến trường miền Nam Việt Nam. Ngày 08/12/1975, ông Nguyễn Như A10 được chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tặng Huân chương chiến công Hạng nhì. Ngày 27/3/1995, bà Hoàng Thị A9 được Nhà nước truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng. Năm 1978, Nhà nước đã xây nhà tình nghĩa cho hai mẹ con bà A11 trên diện tích đất trên của ông A8 bà A9. Năm 1980, bà A11 đi tái giá với người khác tại Vĩnh Phúc (không đăng ký kết hôn). Bà vẫn đi về căn nhà tình nghĩa này. Bà A7 được Nhà nước nuôi dưỡng học tập tại trường con liệt sỹ NVX, huyện TL, Hà Nội. Những ngày nghỉ bà A7 về căn nhà tình nghĩa này để trông nom nhà cửa. Năm 1985, bà A7 được nhà trường cho đi học tại Liên Xô. Trước khi đi bà A7 có nhờ ông Nguyễn Như A12 là chú họ trông nom hộ nhà cửa, đất đai, nhưng chỉ nói miệng không viết giấy tờ gì. Năm 1991, bà A7 về nước và đề nghị ông Nguyễn Như A12 trả lại nhà đất để tiếp tục sử dụng, nhưng ông A12 không trả. Hiện nay, ông Nguyễn Như A1 là cháu nội ông A12 đang sử dụng.

Năm 2009, bà A7 gửi đơn đến UBND xã TV đề nghị giải quyết, UBND xã đã hòa giải nhiều lần nhưng không có kết quả.

Ngày 06/4/2011, Chủ tịch UBND huyện ML ban hành Quyết định số 2969/QĐ-CT về việc giải quyết tranh chấp đất đai giữa bà Nguyễn Thị Kim A7 với ông Nguyễn Như A1 có nội dung: Thửa đất số 229, tờ bản đồ số 01 đo đạc năm 1986 diện tích 343 m2 tại thôn ĐC, xã TV, huyện ML, Hà Nội thuộc quyền sử dụng của hộ ông Nguyễn Như A1. Bà Nguyễn Thị Kim A7 đề nghị công nhận quyền sử dụng đất cho gia đình bà là không có cơ sở. Không đồng ý với Quyết định số 2969/QĐ-CT bà A7 tiếp tục khiếu nại đến UBND thành phố Hà Nội và được Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội ban hành Quyết định số 8712/QĐ-UBND ngày 18/12/2017 về việc giải quyết khiếu nại lần hai, nội dung: Chấp nhận đơn khiếu nại của bà Nguyễn Thị Kim A7 về việc đề nghị công nhận quyền sử dụng 339m2 đất tại thửa số 06, tờ bản đồ số 08 lập năm 2005; chấp thuận cho bà Nguyễn Thị Kim A7 cho gia đình ông Nguyễn Như A1 được sử dụng ½ diện tích đất này. Giao cho Chủ tịch UBND huyện ML hủy bỏ Quyết định số 2969/QĐ-CT.

Ngày 09/7/2018, ông Nguyễn Như A1 đến Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội nộp đơn khởi kiện đối với Quyết định số 8712/QĐ-UBND của Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội. Ông A1 cho rằng thửa đất trên mà bà A7 đi đòi là của bố ông là Nguyễn Như A13 mua lại của ông Vũ Ngọc A14 người hàng xóm để lại cho ông. Năm 1986 ông đã có tên trong sổ mục kê của xã và đóng thuế sử dụng đất đầy đủ. Ông đã ở và sử dụng thửa đất trên cho đến nay, nên không đồng ý với Quyết định số 8712/QĐ-UBND của Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội.

Ý kiến của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội: Giữ nguyên quan điểm đã thể hiện tại Quyết định 8712/QĐ-UBND ngày 18/12/2017. Đề nghị Tòa án xử bác yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Như A1.

Ý kiến của Chủ tịch UBND huyện ML: Việc tranh chấp đất đai giữa bà Nguyễn Thị Kim A7 với ông Nguyễn Như A1 tại xã TV đã được Chủ tịch UBND huyện ML giải quyết tại Quyết định số 2969/QĐ-CT ngày 06/4/2011. Theo đó có nội dung công nhận thửa đất trên là của ông A1. Tuy nhiên, bà Nguyễn Thị Kim A7 không đồng ý nên đã khiếu nại, được Chủ tịch UBND thành phố giao Thanh tra thành phố và Sở Tài nguyên và Môi trường tham mưu giải quyết.

Ngày 18/12/2017, UBND thành phố Hà Nội có Quyết định số 8712/QĐ- UBND về việc giải quyết khiếu nại của bà Nguyễn Thị Kim A7 về tranh chấp đất tại thôn ĐC, xã TV, huyện ML, trong đó có nội dung: “Chấp nhận đơn khiếu nại của bà Nguyễn Thị Kim A7 về việc đề nghị công nhận quyền sử dụng 339m2 đt tại thửa số 06, tờ bản đồ số 08 lập năm 2005; chấp thuận cho bà Nguyễn Thị Kim A7 cho gia đình ông Nguyễn Như A1 được sử dụng ½ diện tích đất này. Giao cho Chủ tịch UBND huyện ML hủy bỏ Quyết định số 2969/QĐ-CT ngày 6/4/2011 về việc giải quyết tranh chấp đất đai giữa bà Nguyễn Thị Kim A7 với ông Nguyễn Như A1…” Ngày 28/2/2018, Chủ tịch UBND huyện ML ban hành Quyết định số 504/QĐ-UBND về việc hủy bỏ Quyết định số 2969/QĐ-CT ngày 6/4/2011.

Việc chia đôi thửa đất: UBND huyện ML giao Phòng Tài nguyên và Môi trường, UBND xã TV tổ chức đối thoại với hộ ông Nguyễn Như A1 và bà Nguyễn Thị Kim A7 để thống nhất chia đôi thửa đất. Tuy nhiên tại buổi làm việc hộ ông Nguyễn Như A1 có ý kiến không đồng ý chia đôi thửa đất như nội dung đã thống nhất tại Biên bản làm việc ngày 09/8/2011 với Sở Tài nguyên và Môi trường; bà Nguyễn Thị Kim A7 có ý kiến thống nhất chia đôi thửa đất để gia đình làm nhà thờ cúng tổ tiên. Một nửa đất còn lại thì đồng ý cho gia đình ông A1.

Ý kiến của UBND xã TV : Nguồn gốc thửa đất số 229, tờ bản đồ số 1 thôn ĐC có nguồn gốc là đất của ông cha để lại từ trước năm 1980. Bản đồ 299, đo đạc năm 1986 thể hiện là thửa đất số 229 diện tích 343 m2, tờ bản đồ số 1 thôn ĐC, sổ mục kê kèm theo mang tên ông Nguyễn Như A1. Bản đồ 2005, thể hiện là thửa đất số 06 diện tích 339,9m2, tờ bản đồ số 08 thôn ĐC, sổ mục kê tạm kèm theo mang tên ông Nguyễn Hữu A1. Thửa đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Hiện ông Nguyễn Như A1 cùng gia đình đang sinh sống đóng thuế từ năm 2015 trở về trước đã nộp thuế đầy đủ. Từ năm 2016 trở lại đây, ông A1 thuộc diện miễn thuế không phải đóng tiền thuế sử dụng đất phi nông nghiệp hàng năm.

Việc tranh chấp đất đai giữa bà Nguyễn Thị Kim A7 với ông Nguyễn Như A1 thì UBND xã đã thực hiện hòa giải nhiều lần nhưng không thành. UBND xã đã hoàn thiện hồ sơ báo cáo lên UBND huyện ban hành quyết định giải quyết tranh chấp đất đai.

Tại bản án Hành chính sơ thẩm số 219/2020/HC-ST ngày 17/9/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã: Căn cứ khoản 3 Điều 3; Điều 30, 32, 116, 204, 206 Luật Tố tụng hành chính; Căn cứ Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015; Luật Khiếu nại năm 2011; Nghị định số 75/2012/NĐ-CP ngày 03/10/2012 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Khiếu nại; Thông tư số 07/2013/TT-TTCP ngày 31/10/2013 của Thanh tra Chính phủ quy định quy trình giải quyết khiếu nại hành chính; Căn cứ Luật Đất đai năm 2013; Nghị định số 43/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ về việc quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai; Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí,

Xử: Bác yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Như A1 xin hủy Quyết định số 8712/QĐ-UBND ngày 18/12/2017 Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội; Quyết định số 504/QĐ-UBND ngày 28/2/2018 của Chủ tịch UBND huyện ML, thành phố Hà Nội. Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 17/9/2020, ông Nguyễn Như A1 có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

* Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Ông Nguyễn Như A1 và các luật sư cho rằng thửa đất trên mà bà A7 đi đòi là của bố ông là Nguyễn Như A13 mua lại của ông Vũ Ngọc A14 năm 1973 và để lại cho ông A1, ông ở và sử dụng cho đến nay, mẹ con bà A7 đã bán hết phần đất của mình rồi nên không còn để đòi lại. Năm 1986 ông đã có tên trong sổ mục kê của xã và đóng thuế sử dụng đất đầy đủ. Ông đã ở và sử dụng thửa đất trên cho đến nay, nên không đồng ý với Quyết định số 8712/QĐ-UBND của Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội vì vậy ông vẫn giữ yêu cầu khởi kiện đề nghị hủy Quyết định số 8712/QĐ-UBND ngày 18/12/2017 của Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội và khởi kiện bổ sung đối với Quyết định số 504/QĐ-UBND ngày 28/2/2018 của Chủ tịch UBND huyện ML.

- Người bị kiện:

+ Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội; Người đại diện theo ủy quyền của Người bị kiện là ông Nguyễn Trọng A4, chức vụ: Phó Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội có đơn xin xử vắng mặt và vẫn giữ nguyên quan điểm như đã trình bày tại cấp sơ thẩm.

+ Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện ML. Người đại diện theo ủy quyền là ông Trần Thanh A5, chức vụ: Phó Chủ tịch UBND huyện ML có đơn xin xử vắng mặt và vẫn giữ nguyên quan điểm như đã trình bày tại cấp sơ thẩm.

- Bà Nguyễn Thị Kim A7 và người đại diện có ý kiến như sau: Thửa đất trên là của cha ông để lại cho bố bà là ông Nguyễn Như A10. Vì trên đất này còn có nhà tình nghĩa Nhà nước làm cho bà Hoàng Thị A9 (bà nội bà) là mẹ Việt Nam anh hùng. Năm 1985, bà được Nhà nước cho đi học tại Liên Xô. Trước khi đi bà có nhờ ông Nguyễn Như A12 là ông nội của ông A1 trông nom giúp (không lập văn bản). Năm 1991, bà về nước để đòi lại nhưng ông A12 không trả. Vì vậy bà đã làm đơn đến UBND xã hòa giải việc tranh chấp này. Sau nhiều lần hòa giải tại xã nhưng không thành. Ngày 6/4/2011 Chủ tịch UBND huyện ML ban hành Quyết định số 2969/QĐ-CT về việc giải quyết tranh chấp đất đai giữa bà với ông Nguyễn Như A1, có nội dung công nhận thửa đất là của ông A1. Bà không đồng ý nên đã khiếu nại đến UBND thành phố Hà Nội. Ngày 18/12/2017, Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội đã ban hành Quyết định số 8712/QĐ-UBND về việc giải quyết khiếu nại có nội dung công nhận thửa đất trên là của bà. Chấp thuận cho bà Nguyễn Thị Kim A7 cho gia đình ông Nguyễn Như A1 được sử dụng ½ diện tích đất này. Giao cho Chủ tịch UBND huyện ML hủy bỏ Quyết định số 2969/QĐ-CT ngày 6/4/2011 về việc giải quyết tranh chấp đất đai giữa bà Nguyễn Thị Kim A7 với ông Nguyễn Như A1 do vậy đề nghị Hội đồng xét xử bác đơn kháng cáo của ông Nguyễn Như A1.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội có quan điểm như sau:

+ Việc chấp hành pháp luật của Hội đồng xét xử, Thẩm phán, Thư ký đã thực hiện đúng theo luật tố tụng hành chính.

+ Theo các tài liệu có trong hồ sơ xác định rằng thửa đất đang tranh chấp là của ông Nguyễn Như A8 bà Hoàng Thị A9 để lại cho bố bà A7 là ông Nguyễn Như A10 (liệt sỹ hy sinh năm 1967), do vậy Quyết định số 8712/QĐ- UBND đã chấp nhận đơn khiếu nại của bà Nguyễn Thị Kim A7 về việc đề nghị công nhận quyền sử dụng 339m2 đất tại thửa số 06, tờ bản đồ số 08 lập năm 2005 là có căn cứ. Đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo của ông Nguyễn Như A1.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra, xem xét tại phiên tòa, kết quả việc tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của kiểm sát viên, các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về xác định đối A13ợng khởi kiện, về thời hiệu khởi kiện và thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính:

Ông Nguyễn Như A1 khởi kiện Quyết định số 8712/QĐ-UBND ngày 18/12/2017 của Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội về việc giải quyết khiếu nại lần hai của ông. Khiếu kiện của ông Nguyễn Như A1 thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội theo quy định tại khoản 3 Điều 32 Luật Tố tụng hành chính và đảm bảo thời hiệu khởi kiện quy định tại điểm a khoản 2 Điều 116 Luật tố tụng hành chính năm 2015.

[2]. Về việc vắng mặt đương sự tại phiên tòa Tại phiên toà, đại diện theo ủy quyền của Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội, Chủ tịch UBND huyện ML, UBND xã TV vắng mặt nhưng đều đã có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ khoản 4 Điều 225 Luật Tố tụng hành chính, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự trên.

[3]. Xét tính hợp pháp của Quyết định số 8712/QĐ-UBND ngày 18/12/2017 của Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội Việc tranh chấp đất giữa ông Nguyễn Như A1 và bà Nguyễn Thị Kim A7 giải quyết tại Quyết định số 2969/QĐ-CT ngày 18/12/2017. Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội ban hành Quyết định số 8712/QĐ-UBND ngày 18/12/2017 là đúng thẩm quyền, đúng căn cứ pháp luật.

[4] Xét kháng cáo của ông Nguyễn Như A1, Hội đồng xét xử thấy như sau:

- Về nguồn gốc đất: Thửa đất bà Nguyễn Thị Kim A7 khiếu nại, đòi quyền sử dụng thuộc thửa đất số 229, tờ bản đồ số 01 diện tích 343m2 (nay thuộc thửa đất số 06, tờ bản đồ số 08 diện tích 339 m2) thôn ĐC, xã TV, huyện ML, thành phố Hà Nội) hiện gia đình ông Nguyễn Như A1 đang sử dụng có nguồn gốc của của ông Nguyễn Như A8 bà Hoàng Thị A9 để lại cho bố bà Nguyễn Thị Kim A7 là ông Nguyễn Như A10 (liệt sỹ hy sinh năm 1967). Năm 1978, Nhà nước đã xây nhà tình nghĩa cho hai mẹ con bà Nguyễn Thị Kim A7 trên diện tích đất này. Năm 1980, mẹ bà A7 là Đàm Thị A11 đi tái giá với người khác tại Vĩnh Phúc, bà A7 được Nhà nước nuôi dưỡng học tập tại trường con liệt sỹ NVX, huyện TL, Hà Nội. Năm 1985, bà A7 được nhà trường cho đi học tại Liên Xô. Trước khi đi bà A7 có nhờ ông Nguyễn Như A12 là chú họ trông nom hộ nhà cửa, đất đai, nhưng chỉ nói miệng không viết giấy tờ gì. Năm 1991, bà A7 về nước và đề nghị ông Nguyễn Như A12 trả lại nhà đất để tiếp tục sử dụng, nhưng ông A12 không trả. Hiện nay ông Nguyễn Như A1 (cháu nội ông A12) đang quản lý sử dụng thửa đất này. UBND xã TV nhiều lần tổ chức hòa giải tranh chấp đất đai giữa bà A7 với ông Nguyễn Như A1 từ năm 2009 nhưng không thành.

Như vậy bà Nguyễn Thị Kim A7 đề nghị được công nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất trên là có cơ sở.

[4]. Về hồ sơ địa chính :

Diện tích đất tranh chấp được thể hiện qua hồ sơ địa chính các năm như sau :

+ Theo Bản đồ năm 1927: Thửa đất số 06, tờ bản đồ số 8. Đo đạc năm 2005 thể hiện là một phần thửa đất số 159.

+ Bản đồ đo đạc thôn ĐC, xã HL, tỉnh Vĩnh Phúc (bị rách nát nên không thể hiện được năm đo đạc) thể hiện là thửa 1997 và một phần thửa đất 159.

Tuy nhiên không có sổ mục kê theo dõi lập kèm nên không xác định được diện tích và chủ sử dụng.

+ Bản đồ 299, đo đạc năm 1986 thể hiện là thửa đất số 229 diện tích 343 m2, tờ bản đồ số 1 thôn ĐC, sổ mục kê kèm theo mang tên ông Nguyễn Như A1.

+ Bản đồ 2005, thể hiện là thửa đất số 06 diện tích 339,9m2, tờ bản đồ số 08 thôn ĐC, sổ mục kê tạm thời mang tên ông Nguyễn Hữu A1.

Năm 1986, ông Nguyễn Như A1 đứng tên trên sổ mục kê thửa đất trên khi mới 11 tuổi là không đúng quy định của pháp luật về đất đai. Hơn nữa bản đồ 299 đo đạc năm 1986 chưa được công nhận là bản đồ chính quy. Bản đồ năm 2005, sổ mục kê tạm thời mang tên ông Nguyễn Hữu A1 mà không phải là Nguyễn Như A1.

Thông báo nộp thuế đất năm 2013, 2014 của Chi cục thuế huyện ML đối với ông Nguyễn Như A1, thì diện tích chịu thuế là 100m2, không thể hiện là thu thuế ở thửa đất nào. Tổng số thuế trước khi miễn giảm: 15.120 đồng.

Theo thống kê lập bộ thuế đất từ năm 1998 thể hiện diện tích đất ở của ông Nguyễn Như A1 là 50 m2. Thuế ghi thu 1.35đ.

- Xét Giấy bàn giao vườn và nhà ở đề ngày 9/10/1983 có nội dung: “… nhượng lại cho chú em tôi là Nguyễn Như A13 và chú A12 tôi chông lom giỗ tết thay tôi...” phần cuối ghi người bàn giao có chữ ký A1 chữ viết Nguyễn Thị A1, tại mục người nhận có chữ ký A13, chữ viết Nguyễn Như A13. Ông A1 cho rằng, giấy này bà A7 đã chuyển nhượng cho chú A13 rồi, còn bà A7 không công nhận giấy này. Bà cho rằng tên bà là Nguyễn Thị Kim A7 chứ không phải là Nguyễn Kim A1. Năm 1985 bà mới đi Liên Xô, trước khi đi bà có nhờ ông A12 trông nom nhà đất giúp bà, chứ không có việc viết giấy tờ gì. Hơn nữa nội dung giấy bàn giao trên không ghi cụ thể thửa đất, diện tích. Mặt khác, một mình bà A7 tự định đoạt để chuyển nhượng nhà đất là vượt quá thẩm quyền trong khi đó bà Đàm Thị A11 là mẹ vẫn còn sống là không đúng.

Về “Văn tự bán vườn ao đề ngày 21/12/1972” giữa bà Đàm Thị A11 với ông Vũ Ngọc A14. Văn tự nhượng lại giữa ông Vũ Ngọc A14 với ông Nguyễn Như A13 để ngày 15/2 Quý Dần là các bản viết tay, không thể hiện thửa đất, diện tích, không có cơ quan có thẩm quyền xác nhận. Ông A1 cho rằng bà A11 mẹ bà A7 đã bán cho ông Vũ Ngọc A14, sau đó ông A8 bán lại cho ông A13 bố ông A1, bố ông A1 đã bàn giao giấy tờ này cho ông A1 và ông A1 quản lý sử dụng cho đến nay là đất của ông. Bà A11 cho rằng đất đai của nhà chồng để lại bà không bán cho ai, bà không công nhận chữ ký trên văn tự bán vườn ao là do bà ký. Hơn nữa, nay ông Vũ Ngọc A14 đã chết nên không làm chứng cho việc mua bán này.

Tại biên bản hòa giải tại xã TV ngày 02/4/2010 ông A1 cũng khẳng định thửa đất này là của ông cha để lại, đề nghị giải quyết là cắt trả cho ông theo văn tự bán đất là 11 thước. Biên bản hòa giải tại UBND xã TV ngày 26/5/2010, ý kiến ông Nguyễn Như A14 đại diện trong dòng họ có ý kiến đề nghị chính quyền chia phần đất đó cho ông A10 và ông A12 (ông A10 2/3, ông A12 1/3 trong diện tích đó).

Tại biên bản làm việc ngày 9/8/2011 tại Sở Tài nguyên và Môi trường Hà Nội ông A1 đề xuất: “nguyện vọng của gia đình xin được giải quyết chia đôi diện tích đất tại thửa đất số 06, tờ bản đồ 08 năm 2005 hiện gia đình ông đang quản lý tại thôn ĐC, xã TV, huyện ML, Hà Nội diện tích 339 m2 chia đôi cho tôi ½ diện tích, bà A7 sử dụng ½ diện tích theo hướng mỗi người đều hướng ra đường làng để tạo cho tôi có chỗ ở ổn định cuộc sống”.

Xét về quan hệ gia đình, ông Nguyễn Như A1 là cháu họ của bà A7, hiện nay chưa có chỗ ở nào khác và có công quản lý nhà đất trong lúc bà A7 đi vắng, mặt khác bà A7 đề nghị giải quyết cho gia đình ông A1 được sử dụng ½ thửa đất này là có tình có lý cần được ghi nhận.

Việc ông A1 nói bà A7 đã bán đất cho bà NT 01 sào đất ao, bà A7 không thừa nhận. Bà Nguyệt xác định thửa đất gia đình bà đang sử dụng nằm cạnh thửa đất 06 tờ bản đồ 08 là do ông Nguyễn Như A12 ông nội ông A1 bán cho gia đình bà chứ không phải do bà A7 bán là có cơ sở.

Do đó có căn cứ khẳng định việc bà Nguyễn Thị Kim A7 khiếu nại đề nghị công nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 06, tờ bản đồ số 08 lập năm 2005 là có cơ sở.

[5] Đối với Quyết định số 2969/QĐ-CT ngày 06/04/2011 của Chủ tịch UBND huyện ML về việc giải quyết tranh chấp đất đai giữa bà Nguyễn Thị Kim A7 với ông Nguyễn Như A1 tại thôn ĐC, xã TV, huyện ML, Hà Nội.

Như phân tích trên nguồn gốc thửa đất đang trang chấp giữa và Nguyễn Thị Kim A7 với ông Nguyễn Như A1 là của cha ông để lại cho bố mẹ bà A7 hiện đang do gia đình ông Nguyễn Như A1 sử dụng tại thôn ĐC, xã TV, huyện ML, Hà Nội, bà A7 kiện đòi là đúng.

Quyết định số 2969/QĐ-CT ngày 06/04/2011 của Chủ tịch UBND huyện ML của có nội dung: “Thửa đất số 229, tờ bản đồ số 01 đo đạc năm 1986 diện tích 343 m2 ti thôn ĐC, xã TV thuộc quyền sử dụng của hộ ông Nguyễn Như A1; bà Nguyễn Thị Kim A7 đề nghị UBND huyện ML công nhận quyền sử dụng đất cho gia đình bà là không có cơ sở”.

Tại Quyết định số 8712/QĐ-UBND ngày 18/12/2017, Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội về giải quyết khiếu nại của bà Nguyễn Thị Kim A7 đã: “Chấp nhận đơn khiếu nại của bà Nguyễn Thị Kim A7 về việc đề nghị công nhận quyền sử dụng 339 m2 đất tại thửa số 06, tờ bản đồ số 08 lập năm 2005; chấp thuận cho bà Nguyễn Thị Kim A7 cho gia đình ông Nguyễn Như A1 được sử dụng ½ diện tích đất này. Giao cho Chủ tịch UBND huyện ML hủy bỏ Quyết định số 2969/QĐ-CT ngày 6/4/2011 về việc giải quyết tranh chấp đất đai giữa bà Nguyễn Thị Kim A7 với ông Nguyễn Như A1...” là có căn cứ. [6] Xét Quyết định số 504/QĐ-UBND ngày 28/2/2018. Về thẩm quyền, căn cứ ban hành :

- Căn cứ Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015; Luật đất đai năm 2013, Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính Phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai;

- Căn cứ Quyết định số 8712/QĐ-UBND ngày 18/12/2017 của Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội;

- Văn bản số 43/TNMT-HC ngày 23/01/2018; Văn bản số 06/TP-HC ngày 30/01/2018;

Chủ tịch UBND huyện ML ban hành Quyết định số 504/QĐ-UBND để hủy bỏ Quyết định số 2969/QĐ-CT là đúng quy định. Quyết định số 2969/QĐ- CT không được công nhận.

Từ các nhận định trên các Quyết định số 8712/QĐ-UBND của Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội, Quyết định số 504/QĐ-UBND là đúng quy định của pháp luật, ông A1 khởi kiện xin hủy là không có căn cứ. Bác kháng cáo của ông Nguyễn Như A1.

Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử thấy: không có cơ sở chấp nhận đơn kháng cáo của ông Nguyễn Như A1 [3] Về án phí: Do kháng cáo của ông Nguyễn Như A1 không được chấp nhận nên phải chịu án phí hành chính phúc thẩm.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 241; khoản 1 Điều 349 Luật Tố tụng Hành chính; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 của Quốc Hội ngày 30/12/2016 quy định về án phí, lệ phí Tòa án, Xử:

1. Không chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Như A1, giữ nguyên các quyết định của Bản án Hành chính sơ thẩm số 219/2020/HC-ST ngày 17/9/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.

2. Về án phí: Ông Nguyễn Như A1 phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí hành chính phúc thẩm. Được trừ vào số tiền tạm ứng án phí ông A1 đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí số AA/2018/0020885 ngày 02 tháng 11 năm 2020 tại Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hà Nội.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

610
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực đất đai số 107/2022/HC-PT

Số hiệu:107/2022/HC-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hành chính
Ngày ban hành:08/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về