Bản án về khiếu kiện hành vi hành chính trong quản lý nhà nước đất đai số 35/2022/HC-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 35/2022/HC-ST NGÀY 06/05/2022 VỀ KHIẾU KIỆN HÀNH VI HÀNH CHÍNH TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐẤT ĐAI

Trong các ngày 27/4, 04/5 và 06/5/2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Long An xét xử sơ thẩm vụ án hành chính thụ lý số 116/2021/TLST-HC ngày 14/10/2021 về việc “Khiếu kiện hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 15/2022/QĐXXST-HC ngày 31/3/2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 12/2022/QĐST-HC ngày 15/4/2022, giữa các đương sự:

Người khởi kiện:

- Ông B, sinh năm: 1961;

- Bà G, sinh năm: 1962;

Cùng địa chỉ: Khu phố 1, thị trấn H, huyện H, tỉnh Long An.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Q, sinh năm: 1982; Địa chỉ: Khu phố 5, phường 1, thị xã K, tỉnh Long An. (Theo văn bản ủy quyền ngày 15/10/2021)

Người bị kiện: Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Long An.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông T – Phó giám đốc Sở tài nguyên và môi trường tỉnh Long An. (Theo văn bản ủy quyền số 7376/STNMT-VPĐKĐĐ ngày 25/11/2021) Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp: Bà V – Chuyên viên Văn phòng đăng ký đất đai trực thuộc Sở tài nguyên và môi trường tỉnh Long An. (Theo văn bản cử người bảo vệ số 944/STNMT-VPĐKĐĐ ngày 17/02/2022) Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1/ Ông C, sinh năm: 1982; Địa chỉ: Khu phố 5, phường 1, thị xã K, tỉnh Long An.

2/ Ông D, sinh năm: 1993; Địa chỉ: Ấp Gò Tranh, xã Bình Tân, thị xã K, tỉnh Long An.

3/ Bà L, sinh năm: 1993; Địa chỉ: Ấp Gò Dưa, xã Bình Hiệp, thị xã K, tỉnh Long An.

4/ Bà K, sinh năm: 1978; Địa chỉ: Khu phố 1, thị trấn H, huyện H, tỉnh Long An. An.

5/ Bà O, sinh năm: 1989; Địa chỉ: Khu phố 3, phường 1, thị xã K, tỉnh Long 6/ Q, sinh năm: 1982; Địa chỉ: Khu phố 5, phường 1, thị xã K, tỉnh Long An.

7/ X, sinh năm: 1981; Địa chỉ: Khu phố 3, phường 1, thị xã K, tỉnh Long An.

8/ Y, sinh năm: 1986; Địa chỉ; Khu phố 5, phường 1, thị xã K, tỉnh Long An.

9/ Ủy ban nhân dân thị xã K, tỉnh Long An.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông J - Phó Trưởng phòng Tài nguyên và Môi trường thị xã K. (Theo văn bản cử người tham gia tố tụng số 3506/UBND- TNMT ngày 09/11/2021).

10/ Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại thị xã K, tỉnh Long An.

Người đại diện theo pháp luật: Bà S - Giám đốc Chi nhánh.

(Ông Q, ông C, ông J, bà V và bà S có mặt; ông T, ông D, bà L, bà K, bà O, ông X và bà Y có văn bản đề nghị xét xử vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, người khởi kiện - Ông B và bà G do ông Q đại diện theo ủy quyền trình bày:

Ông B và bà G được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Long An cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa 3823, tờ bản đồ số 4, diện tích 973,7m2, loại đất ở tại đô thị. Ngày 21/5/2021, ông B và bà G nộp các hồ sơ chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho các ông bà gồm Q (02 bộ), K (02 bộ), Y, O, C, L, D và X. Các bên nhận chuyển nhượng 01 phần thửa 3823 với diện tích mỗi người diện tích là 84,1m2. Hồ sơ đã được Văn phòng đăng ký đất đai tại thị xã K tiếp nhận đo đạc và đặt tên các thửa dự kiến tách thửa. Toàn bộ các hồ sơ chuyển nhượng đã được các bên chuyển nhượng nộp thuế thu nhập và lệ phí trước bạ xong vào ngày 09/6/2021. Đến ngày hẹn trả hồ sơ là ngày 16/6/2021. Tuy nhiên, ngày 14/6/2021, ông B và bà G nhận được Văn bản số 384/CNVPĐKĐĐ về việc tạm dừng hồ sơ tách thửa do có dấu hiệu hình thành khu dân cư tự phát, không thực hiện đầu tư đất đai, xây dựng môi trường chưa đúng quy định, chưa đảm bảo điều kiện hạ tầng giao thông và không giải quyết mà trả các hồ sơ chuyển nhượng của ông B và bà G. Do đó, ông B và bà G khởi kiện hành vi hành chính của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Long An về việc không giải quyết các hồ sơ chuyển nhượng quyền sử dụng đất của ông B và bà G. Buộc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Long An phải có trách nhiệm giải quyết các hồ sơ chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông B và bà G theo đúng quy định pháp luật.

* Tại Văn bản số 1154/STNMT-VPĐKĐĐ ngày 25/02/2022, người bị kiện - Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Long An trình bày:

Ông B và bà G được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Long An cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DA194775 đối với thửa 3823, tờ bản đồ số 4, diện tích 973,7m2, loại đất ở tại đô thị. Ngày 21/5/2021, ông B và bà G nộp các hồ sơ chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho các cá nhân gồm Q, K, Y, O, C, L, D và X theo các hợp đồng xác lập tại Văn phòng Công chứng Bùi Thị Đào. Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại thị xã K thụ lý hồ sơ và chuyển cho Văn phòng đăng ký đất đai xem xét trình Sở Tài nguyên và Môi trường ký cấp giấy chứng nhận.

Ngày 30/9/2020, UBND tỉnh có Công văn số 5970/UBND-KTTC trong đó tại Mục 1 có nội dung: “Giao UBND các huyện, thị xã, thành phố quyết định và chịu trách nhiệm về việc tách thửa đất ở không tiếp giáp đường giao thông công cộng đối với từng trường hợp cụ thể, đảm bảo phù hợp với quy định của Quyết định 75…”.

Ngày 28/6/2021, Sở Tài nguyên và Môi trường có Công văn số 4287/STNMT-VPĐK đề nghị UBND thị xã K kiểm tra, xử lý khu đất trên.

Ngày 24/9/2021, UBND thị xã K có Công văn số 3000/UBND-TNMT phúc đáp cho Sở Tài nguyên và Môi trường về việc không thống nhất giải quyết cho ông B tách thửa với lý do: “Khu đất đề nghị tách thửa không đảm bảo điều kiện về hạ tầng, kỹ thuật, hạ tầng xã hội, giao thông và xây dựng, mà chỉ tiếp giáp với phần đất mà ông B tự ý chừa ra làm đường và vẫn còn nằm trong giấy CN.QSDĐ của ông B; phần đất này không phải là đường giao thông công cộng vì Nhà nước không quy hoạch đường giao thông tại vị trí này”. Vì vậy, các hồ sơ chuyển nhượng quyền sử dụng đất của ông B được trả lại vì không phù hợp quy định tại điểm đ, khoản 4 Điều 1, Quyết định số 75/QĐ-UBND ngày 31/12/2019 của UBND tỉnh Long An. Cụ thể là khu đất mà ông B đề nghị tách thửa không tiếp giáp với đường công cộng mà chỉ tiếp giáp với phần đất mà ông đã hiến trước đây, phần đất này không phải là đường giao thông công cộng vì Nhà nước không quy hoạch đường giao thông tại vị trí này.

Sở Tài nguyên và Môi trường căn cứ và ý kiến của UBND thị xã K không đồng ý giải quyết tách thửa đối với các hồ sơ của ông B. Do đó, Sở Tài nguyên và Môi trường không giải quyết hồ sơ tách thửa chuyển nhượng đối với ông B.

* Tại Văn bản số 641/UBND-TNMT ngày 23/11/2021, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - UBND thị xã K trình bày:

Ông B đã có đơn xin hiến chiều ngang 3,5m đất để làm đường đi vào các lô gửi đến UBND thị xã. Ngày 17/7/2020, UBND thị xã ban hành Quyết định số 1177/QĐ-UBND về việc thu hồi đất của ông B với diện tích 242m2 (có chiều ngang 3,5m) với lý do là “ông B tự nguyện trả lại đất để làm lối đi công cộng”, sau khi thu hồi 3,5m đất, cộng với đường đi công cộng hiện hữu có chiều ngang 1,5m là đường rộng ra thành 05m, từ đó ông B thực hiện việc tách thửa để phân lô bán nền.

Tại thời điểm ông B hiến đất để mở rộng đường đi công cộng là phù hợp nên UBND thị xã ban hành Quyết định số 1177/QĐ-UBND về việc thu hồi đất của ông B. Tuy nhiên, sau đó, ông B lợi dụng việc này để phân lô, bán nền, hình thành khu dân cư tự phát là không phù hợp với quy hoạch của thị xã và không đảm bảo điều kiện về cơ sở hạ tầng kỹ thuật (gồm: Giao thông, cấp điện, cấp nước, thoát nước, môi trường), hạ tầng xã hội, xây dựng.

Đối với phần đường đan còn lại thì diện tích khoảng 345m2 (05m x 6m), loại đất ở đô thị vẫn còn nằm trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông B; ông B dự kiến tách thành thửa số 3784; hiện tại thì ông B đã đổ bêtông khoảng 3,5m ngang và dài khoảng 69m để làm đường đi chung vào các lô đất bên trong mà ông dự kiến phân lô, bán nền.

Ngày 26/8/2021, Sở Tài nguyên và Môi trường có Công văn số 4287/STNMT nhận thấy khu đất hình thành khu dân cư tập trung mà chưa có kết nối hạ tầng, có thửa 3784 người dân tự ý san lấp, xây dựng lối đi chưa đúng mục đích sử dụng theo quy định pháp luật; do đó, đề nghị UBND thị xã kiểm tra, xử lý.

Ngày 24/9/2021, UBND thị xã có Công văn số 3000/UBND-TNMT phúc đáp cho Sở Tài nguyên và Môi trường khẳng định không thống nhất cho phép tách thửa đối với các trường hợp nêu trên và đề nghị Sở Tài nguyên và Môi trường không giải quyết hồ sơ chuyển nhượng quyền sử dụng đất của ông B và các hộ.

Kiến nghị Tòa án nhân dân tỉnh Long An xem xét không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông B và các hộ có liên quan; bởi vì nếu yêu cầu khởi kiện của các hộ được chấp nhận thì trong thời gian tới sẽ phát sinh nhiều trường hợp tương tự, hình thành nhiều khu dân cư tự phát, phá vỡ quy hoạch của địa phương, ảnh hưởng lớn đến trật tự an toàn xã hội, mỹ quan đô thị… * Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại thị xã K do bà S đại diện theo pháp luật trình bày:

Trong quá trình thực hiện đo đạc và phê duyệt mảnh trích đo bản đồ địa chính cho ông B và bà G làm thủ tục tách thửa và chuyển quyền thì Chi nhánh đã có xin ý kiến UBND thị xã K. UBND thị xã K chấp thuận bằng Công văn số 1563/UBND-TNMT ngày 20/5/2021. Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại thị xã K không tự ý ra mảnh trích đo bản đồ địa chính khi chưa có sự phối hợp giữa các ngành. Khi hồ sơ các đương sự được chuyển về Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh thì UBND thị xã K mới có Văn bản số 3000/UBND-TNMT ngày 24/9/2021 nội dung không đồng ý cho tách thửa. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo quy định pháp luật.

* Những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt có văn bản đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật.

Tại phiên tòa sơ thẩm, người khởi kiện do ông Q đại diện theo ủy quyền vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện xác định: Việc Sở Tài nguyên và Môi trường tạm dừng giải quyết 11 hồ sơ (10 hồ sơ chuyển nhượng quyền sử dụng đất của ông B và bà G cho các cá nhân và hồ sơ tách thửa còn lại của ông B sau khi chuyển nhượng) là do UBND thị xã K có văn bản số 3000/UBND-TNMT ngày 24/9/2021 xác định thửa đất của ông B, bà G không có đủ điều kiện tách thửa nên Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Long An không giải quyết mà trả lại cho Chi nhánh và Chi nhánh hiện đã trả hồ sơ cho ông B, bà G.

Vì vậy, nếu UBND thị xã K thu hồi văn bản 3000/UBND-TNMT ngày 24/9/2021 thì Sở Tài nguyên và Môi trường sẽ tiếp tục thực hiện thủ tục hành chính cho ông B và bà G.

Người đại diện theo ủy quyền của UBND thị xã K xác định, việc ông B, bà G nộp các hồ sơ chuyển nhượng quyền sử dụng đất nhưng không đảm bảo điều kiện tách thửa nên không xem xét giải quyết được đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giải quyết theo quy định pháp luật.

Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An xác định:

Trong quá trình thụ lý, xét xử, Tòa án làm đúng thủ tục theo quy định Luật Tố tụng hành chính. Tại phiên tòa, xác định đúng người tham gia tố tụng, quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự trong tranh tụng được đảm bảo đúng theo quy định của Luật tố tụng hành chính.

Về nội dung vụ án, xét thấy: Căn cứ theo quy định tại Quyết định 75/2019/QĐ-UBND ngày 31/12/2019 của UBND tỉnh Long An về quy định trình tự, thủ tục tách thửa trên địa bàn tỉnh Long An thì việc tách thửa đất phải đảm bảo điều kiện. Tuy nhiên, do cơ quan chức năng có thẩm quyền kiểm tra, xác định không đủ điều kiện tách thửa nên không giải quyết là có căn cứ. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử bác yêu cầu của ông B, bà G đối với yêu cầu thực hiện thủ tục hành chính đối với các hồ sơ chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tách thửa của ông B và bà G.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của các đương sự; sau khi nghe ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về đối tượng khởi kiện và thẩm quyền giải quyết vụ án:

Xét yêu cầu xem xét hành vi không thực hiện thủ tục hành chính đối với các trường hợp chuyển nhượng quyền sử dụng đất và cấp đổi giấy của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Long An là hành vi hành chính thực hiện thủ tục hành chính về đất đai theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 195 Luật đất đai thuộc đối tượng khởi kiện vụ án hành chính theo quy định tại khoản 1 Điều 30 và khoản 3 Điều 32 Luật Tố tụng hành chính nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Long An.

[2] Về thủ tục tố tụng: Do người đại diện theo ủy quyền của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Long An vắng mặt suốt quá trình tố tụng nên Tòa án nhân dân tỉnh Long An lập biên bản không tiến hành đối thoại được theo quy định tại Điều 135 Luật Tố tụng hành chính. Các đương sự gồm ông T, ông D, bà L, bà K, bà O, ông X và bà Y có văn bản đề nghị xét xử vắng mặt nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định tại Điều 157 và Điều 158 Luật Tố tụng hành chính.

[3] Đối với hành vi không thực hiện thủ tục cho phép tách thửa của UBND thị xã K là hành vi hành chính liên quan nên được xem xét theo quy định tại Điều 193 Luật Tố tụng hành chính.

[4] Về thời hiệu khởi kiện:

Ngày 21/5/2021, ông B, bà G nộp các hồ sơ chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho các cá nhân gồm Q (02 bộ), K (02 bộ), Y, O, C, L, D và X; phần thửa còn lại sẽ điều chỉnh thành 01 phần thửa còn lại cho ông B. Hồ sơ được tiếp nhận và hẹn đến ngày 16/6/2021 sẽ có kết quả. Ông B, bà G là bên chuyển nhượng và Q (02 bộ), K (02 bộ), Y, O, C, L, D và X là bên nhận chuyển nhượng đã được thông báo nộp nghĩa vụ tài chính và đã nộp xong vào ngày 09/6/2021, kể cả việc đo đạc tách thửa được Văn phòng đăng ký đất đai tại thị xã K ra mảnh trích đo và phê duyệt mảnh trích đo dự kiến tách thành 11 thửa (10 thửa chuyển nhượng và 01 phần thửa còn lại của ông B và bà G). Tuy nhiên, đến tháng 14/ 6/2021 thì ông B và bà G được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh thông báo không giải quyết các hồ sơ chuyển quyền sử dụng đất của ông B, bà G đối với cá cá nhân nêu trên. Do không đồng ý nên ngày 02/7/2021, ông B và bà G gửi đơn khởi kiện đến Tòa án qua đường bưu điện là còn thời hiệu theo quy định tại khoản 2 Điều 116 Luật Tố tụng hành chính.

[5] Về trình tự, thủ tục và thẩm quyền thực hiện hành vi hành chính:

Ông B và bà G được Sở Tài nguyên và Môi trường cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa 3823, tờ bản đồ số 4, diện tích 973,7m2, loại đất ở tại đô thị, tọa lạc phường 1, thị xã K, tỉnh Long An. Ông B và bà G có nhu cầu chuyển quyền 01 phần thửa 3823 cho nhiều người nên việc tiếp nhận hồ sơ là trách nhiệm của Trung tâm hành chính công của UBND thị xã K và việc cấp đổi giấy do chuyển nhượng thuộc thẩm quyền của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Long An cấp theo quy định tại khoản 4 Điều 95 và khoản 3 Điều 105 Luật Đất đai. Do đó, hồ sơ chuyển nhượng quyền sử dụng đất của ông B và bà G được chuyển về Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Long An xem xét là đúng quy định về thẩm quyền và trình tự, thủ tục giải quyết hồ sơ.

[6] Về việc thực hiện hành vi hành chính hoàn trả hồ sơ hành chính, xét thấy:

Sau khi Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Long An tiếp nhận hồ sơ thì UBND tỉnh Long An có Văn bản số 5016/UBND-KTTC ngày 02/6/2021 về việc tạm dừng tiếp nhận, giải quyết hồ sơ tách thửa không đảm bảo diện tích tối thiểu theo Quyết định số 75/QĐ-UBND ngày 31/12/2019. Do đó, Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh căn cứ 5970/UBND-KTTC ngày 30/9/2020 của UBND tỉnh Long An về việc giao thẩm quyền cho UBND huyện, thị xã, thành phố xem xét việc tách thửa để ban hành Văn bản số 4287/STNMT-VPĐKĐĐ ngày 28/6/2021 đề nghị UBND thị xã K kiểm tra và cho ý kiến đối với trường hợp chuyển nhượng quyền sử dụng đất của ông B và bà G. Ngày 24/9/2021, UBND thị xã K ban hành văn bản số 3000/UBND-TNMT nội dung xác định trường hợp ông B không đủ điều kiện tách thửa theo quy định vì thửa đất ông B, bà G không tiếp giáp đường giao thông công cộng mà chỉ tiếp giáp với phần ông B, bà G tự chừa ra. Do đó, Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Long An không giải quyết hồ sơ mà trả hồ sơ cho ông B, bà G.

[7] Việc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Long An viện dẫn văn bản 5016/UBND-KTTC ngày 02/6/2021 của UBND tỉnh Long An và văn bản số 3000/UBND-TNMT ngày 24/9/2021 để từ chối giải quyết hồ sơ chuyển nhượng quyền sử dụng đất của ông B, bà G vì cho rằng việc dù ông B, bà G làm văn bản hiến đất và UBND thị xã K đã ban hành quyết định thu hồi đất của ông B để mở rộng đường công cộng từ 1,5m thành 5m và ông B có đầu tư đổ đan đường, có làm cống và đặt các trụ điện theo biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 23/02/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An. Nhưng qua kiểm tra của địa phương UBND thị xã K xác định mục đích thực chất là để thực hiện chuyển nhượng cho các cá nhân bằng hành vi phân lô, xẻ nền tạo nên khu dân cư tự phát và phá vỡ quy hoạch đô thị là có căn cứ. Các văn bản trên là văn bản nội bộ của các cơ quan hành chính Nhà nước trao đổi để ngăn ngừa tình trạng phân lô, xẻ nền không đúng kế hoạch, quy hoạch sử dụng đất, hình thành nhiều khu dân cư tự phát, phá vỡ quy hoạch của địa phương, ảnh hưởng lớn đến trật tự an toàn xã hội, mỹ quan đô thị… là thực hiện đúng nhiệm vụ của cơ quan quản lý Nhà nước trong quản lý đất đai theo quy định của Luật đất đai.

[8] Do đó, việc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Long An và UBND thị xã K xác định trường hợp ông B, bà G không đủ điều kiện tách thửa khi thực hiện quyền chuyển nhượng vì không đủ điều kiện chuyển nhượng quyền sử dụng đất là phù hợp khoản 11 Điều 22 Luật Đất đai, phù hợp quy định tại khoản 3 Điều 29 Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ và Quyết định 75/2019/QĐ-UBND ngày 31/12/2019 của UBND tỉnh Long An, không phải là hành vi làm ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền sử dụng đất của người dân.

[9] Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cần chấp nhận ý kiến của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Long An, UBND thị xã K và quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An về đề nghị không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện.

Bác yêu cầu khởi kiện của của ông B và bà G đối với Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Long An về hành vi không giải quyết các hồ sơ chuyển nhượng quyền sử dụng đất của ông B và bà G cho các cá nhân gồm Q (02 bộ), K (02 bộ), Y, O, C, L, D và X.

Hành vi của Ủy ban nhân dân thị xã K và Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Long An không giải quyết các hồ sơ chuyển nhượng quyền sử dụng đất của ông B, bà G là hành vi đúng quy định pháp luật.

[10] Kiến nghị UBND thị xã K và Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Long An xem xét trách nhiệm cá nhân trong việc tham mưu phê duyệt mảnh trích đo và giải quyết hồ sơ để các đương sự thực hiện nộp lệ phí trước bạ và thuế thu nhập do chuyển quyền nhưng sau đó lại không giải quyết hồ sơ gây nhầm tưởng và thiệt hại cho các đương sự.

[11] Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ là 1.200.000 đồng: ông B và bà G tự nguyện chịu và đã nộp xong.

[12] Về án phí: Miễn án phí hành chính sơ thẩm cho ông B và bà G do là người cao tuổi (ông B sinh năm 1961 và bà G sinh năm 1962).

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 30, Điều 32 và Điều 193 Luật Tố tụng hành chính; Điều 166 và Điều 188, Điều 95 và Điều 195 Luật Đất đai.

Áp dụng Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Tuyên xử:

Bác yêu cầu khởi kiện của của ông B và bà G đối với Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Long An về hành vi không giải quyết các hồ sơ chuyển nhượng quyền sử dụng đất của ông B và bà G cho các cá nhân gồm Q (02 bộ), K (02 bộ), Y, O, C, L, D và X.

Hành vi của Ủy ban nhân dân thị xã K và Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Long An không giải quyết các hồ sơ chuyển nhượng quyền sử dụng đất của ông B và bà G là hành vi đúng quy định pháp luật.

Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ là 1.200.000 đồng: ông B và bà G tự nguyện chịu và đã nộp xong.

Về án phí: Miễn án phí hành chính sơ thẩm cho ông B và bà G do là người cao tuổi (ông B sinh năm 1961 và bà G sinh năm 1962). Hoàn trả cho ông B và bà G mỗi người số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo các biên lai số 0000015, 0000016 cùng ngày 13/10/2021 tại Cục thi hành án dân sự tỉnh Long An.

Án xử sơ thẩm công khai, các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Bản án hành chính được thi hành theo các Điều 309, Điều 310 và Điều 312 Luật tố tụng hành chính./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

87
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về khiếu kiện hành vi hành chính trong quản lý nhà nước đất đai số 35/2022/HC-ST

Số hiệu:35/2022/HC-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Long An
Lĩnh vực:Hành chính
Ngày ban hành: 06/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về