TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 49/2022/HC-ST NGÀY 12/05/2022 VỀ KHIẾU KIỆN CÁC QUYẾT ĐỊNH THUỘC HOẠT ĐỘNG XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC GIAO THÔNG
Ngày 12 tháng 5 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội mở phiên toà xét xử công khai vụ án hành chính sơ thẩm đã thụ lý số 86/2021/TLST-HC ngày 22/7/2021 về khiếu kiện các Quyết định hành chính thuộc hoạt động xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 25/QĐXX-ST ngày 27 tháng 4 năm 2022, giữa các đương sự:
Người khởi kiện: Ông Bùi Xuân H, sinh năm 1980
Nơi ở: P707 – CC2 Khu đô thị Đ, phường T, quận H, thành phố Hà Nội
Người bị kiện:
1. Trưởng Phòng Cảnh sát giao thông, Công an thành phố Hà Nội
Trụ sở làm việc: 86 phố L, quận H, thành phố Hà Nội
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Chí C. Chức vụ: Phó Trưởng phòng Cảnh sát giao thông, Công an thành phố Hà Nội.
2. Giám đốc Công an thành phố Hà Nội
Đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Hồng K – Phó Giám đốc
NỘI DUNG VỤ ÁN
Người khởi kiện là ông Bùi Xuân H trình bày:
Vào sáng ngày 27/2/2020, ông Bùi Xuân H điều khiển ô tô mang biển kiểm soát 29D 523.17 lưu thông qua tuyến đường Trần Khát Chân - Nguyễn Khoái thì gặp tổ công tác đội 4 ra hiệu lệnh dừng xe và thông báo lỗi vi phạm vượt đèn đỏ, yêu cầu ông H vào trạm xem hình ảnh và xuất trình giấy tờ xe để kiểm tra.
Vào trạm, tại đây cán bộ Nguyễn Hiếu M cấp bậc thượng úy số hiệu quân nhân 125308 thông báo lỗi vi phạm vượt đèn đỏ và thông báo khung hình phạt theo nghị định 100 mức phạt từ 3 triệu đến 5 triệu, tước giấy phép lái xe 2 tháng. Sau - đó đồng chí gạ chuyển lỗi dừng đỗ có 700.000đ và Ông H không đồng ý chuyển lỗi vì lỗi thông báo là vượt đèn đỏ là không đúng nên ông kiên quyết không đồng ý lỗi dừng đỗ của đồng chí M gạ chuyển nhằm hợp thức hóa hành vi dừng đỗ phương tiện trái pháp luật. Nhận thấy việc làm của đồng chí có khuất tất nhằm che đậy lỗi dừng xe xử lý trái luật của tố công tác (Theo điều 3 luật xử lý vi phạm hành chính - chỉ xử phạt hành chính khi có hành vi vi phạm hành chính và có trách nhiệm chứng minh lỗi vi phạm của người tham gia giao thông) việc tôi di chuyển khi đèn xanh là đúng luật và các đồng chí đội 4 dừng xe tôi để báo lỗi vi phạm không tuân thủ tín hiệu đèn giao thông là trái luật. Cán bộ Đội 4 khi dừng xe nói vào xem hình ảnh lỗi vi phạm xe ông, cố tình nói xe ông vi phạm lỗi vượt đèn đỏ, rồi gạ chuyển sang lỗi nhẹ hơn để hợp pháp hóa luật nhằm lách luật. Đây là hành vi cố tình vu khống gán lỗi không có cho người tham gia giao thông, lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong thực hiện nhiệm vụ. Vi phạm nghiêm trọng vào 6 điều Bác Hồ dạy Công an nhân dân, 5 lời thề danh dự của công an nhân dân, 10 điều kỷ luật của công an nhân dân.
Tiếp theo là cấp bậc Thượng úy mà đồng chí Nguyễn Hiếu M số hiệu quân nhân 125308 không đủ trình độ chuyên môn nghiệp vụ, không biết lập biên bản như thế nào mà đưa cho ông ký tờ biên bản không có nội dung gì để ông phải nhắc ghi chép cho đầy đủ đúng với lỗi đã thông báo với ông, không biết đồng chí đã được ăn học như thế nào, được đào tạo ra sao mà khi đưa ông biên bản để ông ký thì không có nội dung, hay chăng để các đồng chí điền nội dung sau khi đã xử lý biên bản, đúng Ịuật.
Ông H yêu cầu đồng chí M ghi thêm vào biên bản lỗi vi phạm của ông là không chấp hành tín hiệu đèn giao thông như đã thông báo và ghi luôn mục ý kiến người vi phạm là ông không đồng ý lỗi trên thì ông mới ký. Sau khi thấy cán bộ Minh viết thêm vào biên bản thì ông ký tên tuy nhiên ký xong thì lại một lần nữa bất ngờ là đồng chí đưa lại biên bản nói ông viết thêm chữ đúng 1 lỗi vào mục ý kiến người vi phạm, lúc này đã mất khá nhiều thời gian và thời tiết nắng nóng, ông đứng giữa trời nắng khá mệt mỏi nên ông ghi thêm ý kiến người vi phạm khi biên bản đã được ký trước đó, với mục đích về sẽ khiếu nại sau. Ngày 06 tháng 03 năm 2020, ông lên đội 4 làm việc và nhận được quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 266117 do ông Đinh Thanh T cấp bậc Thượng tá, chức vụ phó trưởng phòng cảnh sát giao thông công an Hà Nội ký ngày 04 tháng 03 năm 2020.
Tại đây Ông H có xem hồ sơ biên bản và yêu cầu cung cấp ảnh chứng minh lỗi vi phạm của tôi, tuy nhiên các cán bộ tại đây nói không có và ông muốn xem thì phải lên 54 Trần Hưng Đạo để xem, vậy ko có hình ảnh vi phạm thì căn cứ đâu để xử lý vi phạm? Ngày 20 tháng 05 năm 2020 Ông H gửi khiếu nại lần đầu đến phòng cảnh sát giao thông công an thành phố Hà Nội đồng thời chỉ rõ những sai phạm trong thực hiện nhiệm vụ, yếu kém thiếu kiến thức hiểu biết pháp luật, thiếu kiến thức về luật xử lý vi phạm hành chính đối với tố công tác nêu trên.
Ngày 27 tháng 05 năm 2020 Ông H nhận được giấy mời lên làm việc với phòng CSGT Công an thành phố Hà Nội và tại đây tôi đã cung cấp đầy đủ bằng chứng, hình ảnh về hành vi cố tình bắt láo, lợi dụng chức vụ của đội 4 trong việc xử lý vi phạm hành chính.
Ngày 08 tháng 7 năm 2020 Ông H nhận được quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu của Trưởng phòng cảnh sát giao thông Quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu số 79/QĐ- PC08-CTHC của ông Đại tá Dương Đức H, Trưởng phòng cảnh sát giao thông công an thành phố Hà Nội. Ông H cho rằng việc xử lý của cán bộ đội 4 bỏ qua các bằng chứng mà ông đã cung cấp thể hiện sự bao che cấp dưới, dung túng sai trái, trái luật.
Ngày 7 tháng 8 năm 2020 Ông H gửi khiếu nại lần 2 tới Giám đốc công an thành phố Hà Nội.
Ngày 7 tháng 11 năm 2020 Ông H nhận được quyết định về việc giải quyết khiếu nại lần 2 do ông thiếu tướng Nguyễn Hải T, Giám đốc công an thành phố Hà Nội ký ngày 30 tháng 10 năm 2020 với nội dung giải quyết cũng như lần 1 thể hiện quyết định hết sức vô lý, tiếp tục thể hiện sự bao che cấp dưới, dung túng sai trái, trái luật.
Ngày 25 tháng 12 năm 2020, Ông H tiếp tục nhận được thông báo giải quyết đơn số 740/TB- CAHN-PX05 của Giám đốc Công an thành phố Hà Nội ngày 17 tháng 12 năm 2020 về việc xóa tên đồng chí Nguyễn Hiếu M trong quyết định thăng cấp, nâng lương cấp bậc hàm sĩ quan năm 2020 của Thành phố Hà Nội do giải quyết vi phạm giao thông không đúng quy định. Đây là quyết định đúng đắn về việc làm sai trái của đội 4 nói chung và cá nhân đồng chí M. Tuy nhiên việc yêu cầu hủy biên bản và quyết định xử phạt sai trái đối với Ông H thì không xem xét, và cũng không đưa ra căn cứ pháp luật để giải quyết khiếu nại Theo ông, các văn bản giải quyết khiếu nại hoàn toàn không tuân thủ luật khiếu nại và luật xử lý vi phạm hành chính cụ thể:
Điều 6: Các hành vi bị nghiêm cấm của Luật khiếu nại:
2. Thiếu trách nhiệm trong việc giải quyết khiếu nại: Không giải quyết khiếu nại, làm sai lệch các thông tin, tài liệu, hồ sơ vụ việc khiếu nại, cố ỷ giải quyết khiếu nại trải pháp luật.
4. Bao che cho người bị khiếu nại: Can thiệp trái pháp luật vào việc giải quyết khiếu nại.
Điều 31. Quyết định giải quyết khiếu nại cần phải có các nội dung:
2. Quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu phải có các nội dung sau đây.
c. Nội dung khiếu nại.
d. Kết quả xác minh nội dung khiếu nại.
đ. Kết quả đối thoại (nếu có)
e. Căn cứ pháp luật đế giải quyết khiếu nại
g. Kết luận nội dung khiếu nại.
Điều 3 khoản 1 điểm (d)(đ) Luật xử lý vi phạm hành chính
d. Chỉ xử phạt vỉ phạm hành chính khỉ có hành vỉ vỉ phạm hành chính do pháp luật quy định
đ. Người có thẩm quyền xử phạt có trách nhiệm chứng minh vi phạm hành chính. Cá nhân, tổ chức bị xử phạt có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp chứng minh mình không vi phạm hành chỉnh;
Ông H khởi kiện đề nghị Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội giải quyết tuyên hủy các Quyết định hành chính như sau:
- Hủy Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 266117/QĐ-XPVPHC ngày 04/3/2020;
- Hủy Quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu số 79/QĐ-PC08-CTHC ngày 08/7/2020 của Trưởng Phòng Cảnh sát giao thông, Công an thành phố Hà Nội;
- Hủy Quyết định giải quyết khiếu nại lần hai số 3065/QĐ-CAHN- PX05 ngày 30/10/2020 của Giám đốc Công an thành phố Hà Nội;
- Yêu cầu hoàn trả số tiền 4.000.000 đồng đã nộp phạt vi phạm hành chính và xin lỗi công khai trước Tòa và các phương tiện thông tin đại chúng.
*Người bị kiện là Trưởng Phòng Cảnh sát giao thông, Công an thành phố Hà Nội trình bày:
1. Căn cứ xác định thẩm quyền ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính:
Căn cứ Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012: Tại Điểm b, c Khoản 4, Điều 39 quy định: “Trưởng phòng Cảnh sát giao thông đường bộ đường sắt có quyền: Phạt tiền đến 20% mức tiền phạt tối đa đối với lĩnh vực tương ứng quy định tại Điều 24 của Luật này nhưng không quá 25.000.000 đồng; Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn;”.
Căn cứ Quyết định số 218/QĐ-GQXP ngày 27/12/2019 của Phòng CSGT về việc giao quyền xử phạt vi phạm hành chính, thể hiện việc đồng chí Đại tá Dương Đức H - Trưởng phòng CSGT đã giao quyền xử phạt vi phạm hành chính cho đồng chí Thượng tá Đinh Thanh T - Phó trưởng phòng CSGT, thời hạn: từ 01/01/2020 đến hết ngày 30/6/2020.
Ngày 04/3/2020, đồng chí Thượng tá Đinh Thanh T - Phó trưởng phòng CSGT ký Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số: 266117/QĐ-XPHC đối với ông Bùi Xuân H về hành vi điều khiển xe ô tô “không chấp hành hiệu lệnh của đèn tín hiệu giao thông”, Căn cứ Điểm a, Khoản 5, Điều 5 của Nghị định số 100/2019/NĐ-CP ngày 30/12/2019 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt, mức phạt: 4.000.000đ (bốn triệu đồng), hình thức phạt bổ sung: Tước giấy phép lái xe 02 tháng kể từ ngày 04/3/2020 đến ngày 04/5/2020.
Đồng chí Thượng tá Đinh Thanh T - Phó trưởng phòng CSGT ký Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 266117/QĐ-XPHC là đúng thẩm quyền.
2. Căn cứ xử phạt vi phạm hành chính đối với ông Bùi Xuân H về hành vi “không chấp hành hiệu lệnh của đèn tín hiệu giao thông”:
Tại Biên bản vi phạm hành chính số 257930/BB-VPHC do đồng chí Nguyễn Hiếu M lập ngày 27/02/2020: Căn cứ vào kết quả kiểm tra thực tế, nội dung vi phạm hành chính về thời gian, địa điểm, hành vi đã được người lập biên bản thể hiện đầy đủ, rõ ràng, trích dẫn theo đúng quy định. Phần cuối biên bản nêu rõ: “Biên bản lập xong hồi 10 giờ 22 phút ngày 27/02/2020,.... và đọc lại cho những người có tên trong biên bản cùng nghe công nhận là đúng và cùng ký tên dưới đây”.
Ông Bùi Xuân H đã ký, ghi rõ họ tên xác nhận biên bản vi phạm hành chính trên, đồng thời ghi ý kiến cá nhân: “Đúng 1 lỗi”, do đó, mặc nhiên Ông H đã thừa nhận hành vi vi phạm của mình. Về việc Ông H cho rằng mình ký nhận lỗi tại biên bản vi phạm hành chính trên là do đồng chí Nguyễn Hiếu M hướng dẫn là không có căn cứ vì Ông H là người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, trước khi ký đã được thông qua biên bản mà không có ý kiến khác.
Ngoài ra, căn cứ Điểm a, Khoản 2, Điều 12 của Thông tư số 01/2016/TT- BCA ngày 04/01/2016 của Bộ Công an Quy định nhiệm vụ, quyền hạn, hình thức, nội dung tuần tra, kiểm soát giao thông đường bộ của Cảnh sát giao thông thể hiện: “Cán bộ thực hiện nhiệm vụ tuần tra, kiểm soát được dừng phương tiện để kiểm soát trong các trường hợp sau: Trực tiếp phát hiện hoặc thông qua phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ phát hiện, ghi nhận được các hành vi vi phạm pháp luật về giao thông đường bộ...”. Như vậy, trong trường hợp này, tổ công tác của đồng chí Nguyễn Hiếu M đã căn cứ vào kết quả kiểm tra trực tiếp để phát hiện vi phạm (không thuộc trường hợp phát hiện thông qua phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ). Do đó, việc Ông H yêu cầu người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính chứng minh hành vi vi phạm bằng hình ảnh thu được từ thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ là không có căn cứ. Việc chứng minh hành vi vi phạm đã được tổ công tác thực hiện trong quá trình làm việc với Ông H và kết thúc bằng việc Ông H đã thừa nhận và ký nhận lỗi tại biên bản vi phạm hành chính (là văn bản đảm bảo hiệu lực pháp lý).
3. Đối với yêu cầu giải quyết khiếu nại lần 1:
Ngày 20/5/2020, Ông H đã làm đơn khiếu nại gửi Phòng PC08 về những nội dung sau: Khiếu nại Biên bản vi phạm hành chính số: 257930/BB-VPHC và Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số: 266117/QĐ-XPHC của Phòng CSGT; đồng thời, Ông H cho rằng tổ công tác Đội CSGT số 4 - Phòng CSGT vi phạm quy trình, quy định công tác vì có các hành vi: chuyển lỗi vi phạm; sử dụng thiết bị không phải là thiết bị nghiệp vụ; lập biên bản vi phạm hành chính nhưng không ghi hành vi vi phạm, đưa cho người vi phạm ký.
Ngày 08/7/2020, Phòng Cảnh sát giao thông ra Quyết định số: 79/QĐ-PC08- CTHC về việc giải quyết khiếu nại của ông Bùi Xuân H, kết quả:
- Đơn của ông Bùi Xuân H có 04 nội dung, căn cứ kết quả kiểm tra, xác minh thì nội dung khiếu nại là sai, 01 nội dung tố cáo là không đúng và 02 nội dung tố cáo còn lại là có cơ sở. Cụ thể:
(1) Nội dung khiếu nại tổ công tác Đội CSGT số 4 lập biên bản vi phạm hành chính đối với Ông H về hành vi “không chấp hành hiệu lệnh của đèn tín hiệu giao thông” là khiếu nại sai.
(2) Nội dung Ông H cho rằng đồng chí M sử dụng hình ảnh không phải thu được từ thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ làm căn cứ lập biên bản vi phạm hành chính là không đúng.
(3) Nội dung Ông H cho rằng đồng chí M gợi ý chuyển lỗi vi phạm là có căn cứ , vi phạm Khoản 6, Điều 5 Quyết định số 208/QĐ-CAHN-PC67 ngày 03/4/2014 của Công an thành phố Hà Nội về ban hành Quy định những điều cán bộ, chiến sỹ CSGT, Công an TP Hà Nội được làm và không được làm trong quá trình thực hiện nhiệm vụ: “Không được làm việc qua người trung gian, không được kéo dài thời gian xử lý vi phạm. Không được chuyển lỗi vi phạm...” (4) Nội dung Ông H cho rằng đồng chí M lập biên bản vi phạm hành chính nhưng không ghi hành vi vi phạm, đưa Ông H ký là có căn cứ, vi phạm Khoản 2, Điều 58, Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, quy định việc lập biên bản vi phạm hành chính như sau: “Biên bản vi phạm hành chính phải ghi rõ ngày, tháng, năm, địa điểm lập biên bản; họ, tên, chức vụ người lập biên bản; họ, tên, địa chỉ, nghề nghiệp của người vi phạm hoặc tên, địa chỉ của tổ chức vi phạm; giờ, ngày, tháng, năm, địa điểm xảy ra vi phạm; hành vi vi phạm...”.
Quan điểm của Phòng CSGT: Giữ nguyên Biên bản vi phạm hành chính số 257930/BB-VPHC và Quyết định xử phạt VPHC số 266117/QĐ-XPHC.
Đối với những nội dung vi phạm của đồng chí Nguyễn Hiếu M, mặc dù không làm thay đổi bản chất của biên bản vi phạm hành chính nhưng đã vi phạm quy định của Ngành Công an. Căn cứ Điểm a, Khoản 3, Điều 9, Thông tư số 10/2010/TT-BCA(X11) ngày 25/02/2010 của Bộ Công an quy định về xử lý vi phạm Điều lệnh Công an nhân dân thì những vi phạm nêu trên của đ/c Minh xử lý kỷ luật bằng hình thức Khiển trách.
Ngày 28/8/2020, đồng chí Trưởng phòng CSGT đã ký Quyết định số 150/QÐKL-PC08-CTHC Thi hành kỷ luật đồng chí Đại úy Nguyễn Hiếu M; sinh năm: 1982, Quê quán: Lâm Thao - Phú Thọ, Đơn vị công tác: Đội CSGT số 4 bằng hình thức Khiển trách.
Tháng 4/2021, Công an thành phố Hà Nội đã điều chuyển đồng chí Nguyễn Hiếu M đến nhận công tác tại Công an huyện L liên quan đến sai phạm trong vụ việc trên.
Trưởng Phòng Cảnh sát giao thông Công an thành phố Hà Nội đề nghị Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội không chấp nhận yêu cầu khởi kiện và bác bỏ các yêu cầu khởi kiện của ông Bùi Xuân H.
Người bị kiện là Giám đốc Công an thành phố Hà Nội trình bày:
Do ông Bùi Xuân H có đơn Khiếu nại lần hai đề nghị hủy Biên bản vi phạm hành chính, Quyết định xử phạt vi phạm hành chính và Quyết định số 79/QĐ- PC08-CT ngày 08/7/2020 của Trưởng phòng Cảnh sát giao thông về việc giải quyết khiếu nại (lần đầu). Ngày 30/10/2020, Giám đốc Công an Thành phố ra Quyết định số 3065/QĐ-CAHN-PX05 về việc giải quyết khiếu nại (lần hai) của ông Bùi Xuân H với nội dung: Công nhận và giữ nguyên Quyết định giải quyết khiếu nại (lần đầu) của đồng chí Đại tá Dương Đức H - Trưởng phòng Cảnh sát giao thông - Công an Thành phố Hà Nội tại Quyết định số 79/QĐ-PC08-CT ngày 08/7/2020.
Ngày 01/9/2020, Giám đốc Công an Thành phố đã ban hành Quyết định số 4637/QĐ-CAHN-PX05 về việc xác minh nội dung khiếu nại,Thông báo số 512/TB-CAHN-PX05 về việc thụ lý giải quyết khiếu nại của ông Bùi Xuân H và giao Thanh tra Công an Thành phố tiến hành xác minh nội dung khiếu nại đối với Quyết định giải quyết khiếu nại (lần đầu) số 79/QĐ-PC08-CTHC ngày 08/7/2020 của đồng chí Đại tá Dương Đức H - Trưởng phòng Cảnh sát giao thông theo quy định. Kết quả báo cáo Giám đốc Công an Thành phố trước khi ban hành Quyết định giải quyết khiếu nại (lần hai) theo quy định.
Kiểm tra Kế hoạch số 273/KH-PC08-Đ4 ngày 04/02/2020 của Đội Cảnh sát giao thông số 4, Phòng Cảnh sát giao thông (thực hiện từ ngày 15/02/2020 đến ngày 14/03/2020), Kế hoạch bố trí lực lượng chỉ huy, điều khiển giao thông tuần tra kiểm soát - xử lý vi phạm ngày 27/02/2020 của Đội Cảnh sát giao thông số 4 và Nhật ký tuần tra kiểm soát ngày 27/02/2020 của Đội Cảnh sát giao thông số 4 thể hiện: Tổ công tác thuộc Đội Cảnh sát giao thông số 4 tại khu vực ngã tư Nguyễn Khoái - Trần Khát Chân thực hiện theo đúng Kế hoạch, lịch công tác của Đội Cảnh sát giao thông số 4, trong đó có nội dung xử lý hành vi vi phạm “vượt đèn đỏ”.
Ngày 26/10/2020, Thanh tra Công an Thành phố đã tổ chức đối thoại giữa ông Bùi Xuân H và đại diện Phòng Cảnh sát giao thông. Ông H giữ nguyên quan điểm về việc lập Biên bản vi phạm hành chính của Tổ công tác thuộc Đội Cảnh sát giao thông số 4, Phòng Cảnh sát giao thông là sai; việc Tổ công tác dừng xe, thông báo lỗi sau đó mời Ông H xem để chứng minh vi phạm thì phải cung cấp hình ảnh vi phạm cho Ông H. Phòng Cảnh sát giao thông giữ nguyên quan điếm việc lập Biên bản và ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với ông Bùi Xuân H về hành vi “Không chấp hành hiệu lệnh của đèn tín hiệu giao thông” là đúng.
Căn cứ vào việc kiểm tra thực tế, trực tiếp phát hiện vi phạm của cán bộ Đội Cảnh sát giao thông số 4, ông Bùi Xuân H điều khiến xe ô tô không chấp hành hiệu lệnh của đèn tín hiệu giao thông, đồng chí cán bộ Cảnh sát giao thông lập Biên bản vi phạm hành chính số 257930/BB-VPHC ngày 27/02/2020 và ngày 04/3/2020, đồng chí Thượng tá Đinh Thanh T - Phó Trưởng phòng Cảnh sát giao thông - Công an thành phố Hà Nội ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 266117/QĐ- XPHC đối với ông Bùi Xuân H là đúng.
Quá trình tiếp nhận và giải quyết đơn khiếu nại (lần đầu) của Phòng Cảnh sát giao thông là đúng quy định của pháp luật.
Ngày 30/10/2020, Giám đốc Công an thành phố Hà Nội đã ban hành Quyết định số 3065/QĐ-CAHN-PX05 về việc giải quyết khiếu nại (lần hai) đối với anh Bùi Xuân H đảm bảo đúng quy định.
Giám đốc Công an thành phố Hà Nội xác định việc xử phạt vi phạm hành chính đối với ông Bùi Xuân H về hành vi vi phạm “ Không chấp hành hiệu lệnh của đèn tín hiệu giao thông” theo Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 266117/QĐ-XPVPHC ngày 04/3/2020 và việc ban hành Quyết định giải quyết khiếu nại lần một, lần hai là đúng quy định pháp luật.
Tại phiên tòa, Ông H giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, theo đó yêu cầu:
- Hủy Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 266117/QĐ-XPVPHC ngày 04/3/2020;
- Hủy Quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu số 79/QĐ-PC08-CTHC ngày 08/7/2020 của Trưởng Phòng Cảnh sát giao thông, Công an thành phố Hà Nội;
- Hủy Quyết định giải quyết khiếu nại lần hai số 3065/QĐ-CAHN- PX05 ngày 30/10/2020 của Giám đốc Công an thành phố Hà Nội;
- Yêu cầu hoàn trả số tiền 4.000.000 đồng đã nộp phạt vi phạm hành chính và xin lỗi công khai trước Tòa và các phương tiện thông tin đại chúng.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội nêu quan điểm hoạt động thụ lý và tiến hành tố tụng của thẩm phán và Hội đồng xét xử là đúng quy định; các đương sự đã được thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng; Có đủ căn cứ để xác định Quyết định xử phạt vi phạm hành chính; Quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu và lần hai của Trưởng Phòng Cảnh sát giao thông và Giám đốc Công an thành phố Hà Nội được ban hành là đúng pháp luật nên đề nghị Hội đồng xét xử bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Bùi Xuân H.
Căn cứ các tài liệu, chứng cứ thu thập có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra công khai tại phiên tòa; căn cứ kết quả trông tụng tại phiên tòa, ý kiến của các đương sự và những người tham gia tố tụng khác.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về tố tụng Đối tượng khởi kiện là các Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 266117/QĐ-XPVPHC ngày 04/3/2020; Quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu số 79/QĐ-PC08-CTHC ngày 08/7/2020 của Trưởng Phòng Cảnh sát giao thông và Quyết định giải quyết khiếu nại lần hai số 3065/QĐ-CAHN- PX05 ngày 30/10/2020 của Giám đốc Công an thành phố Hà Nội đều là các quyết định hành chính được ban hành trong quá trình xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 3 và Điều 30 Luật Tố tụng hành chính.
Đơn khởi kiện của ông Bùi Xuân H đảm bảo về thời hiệu khởi kiện theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 116 Luật Tố tụng hành chính.
Người bị kiện là Trưởng Phòng Cảnh sát giao thông và Giám đốc Công an thành phố Hà Nội nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân Thành phố Hà Nội theo quy định tại khoản 3 Điều 32 Luật Tố tụng hành chính.
Tại phiên tòa, Người bị kiện là Trưởng Phòng Cảnh sát giao thông và Giám đốc Công an thành phố Hà Nội có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 156 và khoản 1 Điều 158 Luật Tố tụng hành chính, Toà án vẫn tiến hành xét xử.
[2] Về nội dung và các yêu cầu khởi kiện
[2.1]. Đối với yêu cầu hủy Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 266117/QĐ-XPVPHC ngày 04/3/2020 của Trưởng phòng cảnh sát giao thông, công an thành phố Hà Nội.
Hội đồng xét xử nhận định: Hồi 10h15 ngày 27/02/2020, tổ công tác Đội CSGT số 4, Phòng CSGT do đồng chí Nguyễn Hiếu M làm tổ trưởng đã dừng, kiểm tra xe ô tô BKS 29D-523.17 do ông Bùi Xuân H điều khiển tại ngã tư Nguyễn Khoái - Trần Khát Chân vì có hành vi “vượt đèn đỏ” từ Trần Khát Chân rẽ trái vào Nguyễn Khoái.
Đồng chí Nguyễn Hiếu M là người làm việc trực tiếp với Ông H tại khu vực bốt Cảnh sát giao thông, đã thông báo lỗi vi phạm: “Không chấp hành hiệu lệnh của đèn tín hiệu giao thông” quy định tại Điểm e, Khoản 5, Điều 5 Nghị định 100/2019/NĐ-CP ngày 30/12/2019 của Chính phủ.
Mặc dù Ông H không công nhận hành vi vi phạm, đồng chí Minh vẫn kiên quyết lập biên bản vi phạm hành chính nhưng có gợi ý chuyển lỗi dừng, đỗ trái quy định có mức phạt nhẹ hơn (phạt mức 700.000đ thay vì mức phạt đèn đỏ 4.000.000đ). Ông H không đồng ý với việc chuyển lỗi trên và yêu cầu đồng chí Minh lập biên bản đúng hành vi đã thông báo, đồng chí Minh tiếp tục lập biên bản và đưa Ông H ký thì Ông H phát hiện mục “Nội dung vi phạm” tại biên bản để trống nên đã thắc mắc và yêu cầu đồng chí Minh viết đầy đủ. Sau khi đồng chí Minh hoàn thiện đầy biên bản vi phạm hành chính, đã hướng dẫn Ông H ký và ghi ý kiến cá nhân: “đúng một lỗi”, Ông H đã ghi đúng theo hướng dẫn, ký ghi rõ họ tên mà không có thắc mắc gì.
Tại Điểm b, c Khoản 4, Điều 39 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định: “Trưởng phòng Cảnh sát giao thông đường bộ đường sắt có quyền: Phạt tiền đến 20% mức tiền phạt tối đa đối với lĩnh vực tương ứng quy định tại Điều 24 của Luật này nhưng không quá 25.000.000 đồng; Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn;”.
Căn cứ Quyết định số 218/QĐ-GQXP ngày 27/12/2019 của Phòng CSGT về việc giao quyền xử phạt vi phạm hành chính, thể hiện việc đồng chí Đại tá Dương Đức Hải - Trưởng phòng CSGT đã giao quyền xử phạt vi phạm hành chính cho đồng chí Thượng tá Đinh Thanh T - Phó trưởng phòng Cảnh sát giao thông, thời hạn: từ 01/01/2020 đến hết ngày 30/6/2020.
Ngày 04/3/2020, đồng chí Thượng tá Đinh Thanh T - Phó trưởng phòng CSGT ký Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số: 266117/QĐ-XPHC đối với ông Bùi Xuân H về hành vi điều khiển xe ô tô “không chấp hành hiệu lệnh của đèn tín hiệu giao thông”, Căn cứ Điểm a, Khoản 5, Điều 5 của Nghị định số 100/2019/NĐ-CP ngày 30/12/2019 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt, mức phạt: 4.000.000đ (bốn triệu đồng), hình thức phạt bổ sung: Tước giấy phép lái xe 02 tháng kể từ ngày 04/3/2020 đến ngày 04/5/2020.
Như vậy, đồng chí Thượng tá Đinh Thanh T - Phó trưởng phòng CSGT ký Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 266117/QĐ-XPHC là đúng thẩm quyền.
Tại Biên bản vi phạm hành chính số 257930/BB-VPHC do đồng chí Nguyễn Hiếu M lập ngày 27/02/2020: Căn cứ vào kết quả kiểm tra thực tế, nội dung vi phạm hành chính về thời gian, địa điểm, hành vi đã được người lập biên bản thể hiện đầy đủ, rõ ràng, trích dẫn theo đúng quy định. Phần cuối biên bản nêu rõ: “Biên bản lập xong hồi 10 giờ 22 phút ngày 27/02/2020,.... và đọc lại cho những người có tên trong biên bản cùng nghe công nhận là đúng và cùng ký tên dưới đây”.
Ông Bùi Xuân H đã ký, ghi rõ họ tên xác nhận biên bản vi phạm hành chính trên, đồng thời ghi ý kiến cá nhân: “Đúng 1 lỗi”, do đó, mặc nhiên Ông H đã thừa nhận hành vi vi phạm của mình. Về việc Ông H cho rằng mình ký nhận lỗi tại biên bản vi phạm hành chính trên là do đồng chí Nguyễn Hiếu M hướng dẫn là không có căn cứ vì Ông H là người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, trước khi ký đã được thông qua biên bản mà không có ý kiến khác.
Ngoài ra, căn cứ Điểm a, Khoản 2, Điều 12 của Thông tư số 01/2016/TT- BCA ngày 04/01/2016 của Bộ Công an Quy định nhiệm vụ, quyền hạn, hình thức, nội dung tuần tra, kiểm soát giao thông đường bộ của Cảnh sát giao thông thể hiện: “Cán bộ thực hiện nhiệm vụ tuần tra, kiểm soát được dừng phương tiện để kiểm soát trong các trường hợp sau: Trực tiếp phát hiện hoặc thông qua phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ phát hiện, ghi nhận được các hành vi vi phạm pháp luật về giao thông đường bộ...”. Như vậy, trong trường hợp này, tổ công tác của đồng chí Nguyễn Hiếu M đã căn cứ vào kết quả kiểm tra trực tiếp để phát hiện vi phạm (không thuộc trường hợp phát hiện thông qua phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ). Do đó, việc Ông H yêu cầu người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính chứng minh hành vi vi phạm bằng hình ảnh thu được từ thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ là không có căn cứ. Việc chứng minh hành vi vi phạm đã được tổ công tác thực hiện trong quá trình làm việc với Ông H và kết thúc bằng việc Ông H đã thừa nhận và ký nhận lỗi tại biên bản vi phạm hành chính (là văn bản đảm bảo hiệu lực pháp lý).
Tại điểm a khoản 5 Điều 5 Nghị định số 100/2019/NĐ-CP quy định: “Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng, đối với người điều khiển xe thực hiện một trong các hành vỉ vi phạm sau đây: Không chấp hành hiệu lệnh của đèn tín hiệu giao thông... Ngoài hình thức xử phạt chính là phạt tiền, người điều khiển xe thực hiện hành vi vi phạm còn bị áp dụng hình thức xử phạt bổ sung sau đây: Tước quyền sử dụng Giấy phép lái xe từ 01 tháng đến 03 tháng (quy định tại điểm b khoản 11 Điều 5 Nghị định số 100/2019/NĐ- CP).
Do đó, đồng chí Thượng tá Đinh Thanh T - Phó Trưởng phòng Cảnh sát giao thông căn cứ vào thẩm quyền xử phạt được Trưởng phòng Cảnh sát giao thông giao để ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với ông Bùi Xuân H về hành vi điều khiển xe ô tô BKS 29D-523.17 vi phạm: “Không chấp hành hiệu lệnh của đèn tín hiệu giao thông”, mức tiền phạt là 4.000.000 đồng (Bốn triệu đồng) và hình thức xử phạt bổ sung là: Tước quyền sử dụng Giấy phép lái xe 02 tháng là đúng quy định của pháp luật.
Việc Thượng úy Nguyễn Hiếu M, Tổ trưởng trong quá trình lập biên bản đã có hành vi chuyển lỗi vi phạm trái quy định tại khoản 6 Điều 5 QĐ số 208/QĐ- CAHN-PC67 ngày 03/4/2014 của CA TPHN thì đã bị xử lý kỷ luật như nêu ở trên là phù hợp và theo quy định tại Thông tư số 49/2019/TT-BCA ngày 15/10/2019 của Bộ trưởng Bộ Công an.
[2.2] Đối với Quyết định giải quyết khiếu nại:
Quá trình giải quyết vi phạm, Ông H có Đơn khiếu nại về việc xử phạt vi phạm hành chính đối với ông. Ngày 09/5/2019, Trưởng Phòng Cảnh sát giao thông ban hành Quyết định số 79/QĐ-PC08-CTHC về việc giải quyết khiếu nại (lần đầu) khẳng định việc lập Biên bản vi phạm hành chính số 257930/BB-VPHC và Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 266117/QĐ-XPVPHC đối với Ông H là đúng quy định của pháp luật. Ngày 30/10/2020, Giám đốc Công an thành phố Hà Nội đã ban hành Quyết định số 3065/QĐ- CAHN-PX05 về việc giải quyết khiếu nại (lần hai) với nội dung khẳng định việc giải quyết khiếu nại lần đầu là đúng quy định của pháp luật.
Như đã phân tích ở trên thì lý do khiếu nại của Ông H không có căn cứ để chấp nhận. Do vậy, các Quyết định giải quyết khiếu nại của Trưởng Phòng Cảnh sát giao thông và Giám đốc Công an thành phố Hà Nội là có căn cứ, phù hợp quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục, thẩm quyền và nội dung giải quyết.
[2.3] Về yêu cầu hoàn trả lại số tiền đã nộp phạt và yêu cầu xin lỗi công khai:
Ông H yêu cầu hoàn trả và bồi thường số tiền đã thu sai quy định; công khai, xin lỗi trước tòa và các phương tiện thông tin truyền thông. Như phân tích ở trên, Ông H đã có hành vi vi phạm pháp luật đó là không chấp hành hiệu lệnh của đèn tín hiệu giao thông (vượt đèn đỏ) với mức tiền phạt 4.000.000 đồng là đúng theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 5 Nghị định số 100/2019/NĐ-CP. Vì vậy, Ông H yêu cầu hoàn trả và bồi thường số tiền đã thu sai quy định; công khai, xin lỗi trước tòa và các phương tiện thông tin truyền thông là không có cơ sở để chấp nhận.
Như vậy, các yêu cầu khởi kiện của ông Bùi Xuân H là không có cơ sở để được chấp nhận nên Hội đồng xét xử thống nhất căn cứ điểm a khoản 2 Điều 193 Luật tố tụng hành chính xử bác toàn bộ các yêu cầu khởi kiện.
[3] Về án phí: Yêu cầu khởi kiện của ông Bùi Xuân H không được chấp nhận, nên Ông H phải chịu tiền án phí hành chính sơ thẩm theo quy định tại Khoản 1 Điều 348 Luật Tố tụng hành chính và Khoản 1 Điều 32 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội.
[4] Về quyền kháng cáo: Ông Bùi Xuân H có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Người bị kiện là Trưởng phòng Cảnh sát giao thông và Giám đốc Công an thành phố Hà Nội vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định tại Điều 204; Khoản 1 Điều 206 Luật tố tụng hành chính.
Luận cứ và đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội tại phiên tòa phù hợp với các chứng cứ có trong hồ sơ và nhận định của Hội đồng xét xử.
Từ những nhận định trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1, khoản 2 Điều 3; Điều 30; Điều 32; Điều 158; điểm a khoản 2 Điều 193; Điều 194; Điều 204; khoản 1 Điều 206 và khoản 1 Điều 348 Luật Tố tụng hành chính; Luật Giao thông đường bộ; Điểm a khoản 1 Điều 3; khoản 4 Điều 39 Luật Xử lý vi phạm hành chính; Điều 19; Điều 20 Luật Khiếu nại;
Căn cứ điểm a Khoản 5, điểm b Khoản 11 Điều 5 và khoản 4, Điều 76 Nghị định số 100/2019/NĐ-CP ngày 30/10/2019 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt; Khoản 1 Điều 32 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án, tạm ứng án phí, tạm ứng lệ phí Tòa án.
Xử:
1. Bác các yêu cầu khởi kiện của ông Bùi Xuân H.
2. Về án phí: ông Bùi Xuân H phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) tiền án phí hành chính sơ thẩm và được đối trừ vào số tiền đã nộp tạm ứng án phí theo biên lại thu tiền số AA/2021/0000239 ngày 16/7/2021 của Cục Thi hành án dân sự thành phố Hà Nội.
3. Ông Bùi Xuân H có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Người bị kiện là Trưởng phòng Cảnh sát giao thông và Giám đốc Công an thành phố Hà Nội vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Bản án về khiếu kiện các quyết định thuộc hoạt động xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông số 49/2022/HC-ST
Số hiệu: | 49/2022/HC-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Ngày ban hành: | 12/05/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về