Bản án AA/2018/HSST ngày 30/05/2018 về tội cướp giật tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ ĐỒN - TỈNH BẮC KẠN

BẢN ÁN AA/2018/HSST NGÀY 30/05/2018 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 30 tháng 5 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Đồn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 14/2018/TLST-HS ngày 02 tháng 5 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 15/2018/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 5 năm 2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: TRIỆU VĂN B; Sinh ngày 19 tháng 02 năm 1991 Nơi ĐKHKTT: Thôn B, xã L, huyện C, tỉnh Bắc Kạn. Chỗ ở hiện nay: Tổ 3, thị trấn B, huyện C, tỉnh Bắc Kạn; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 12/12; Dân tộc: Dao; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Triệu Văn Th (Đã chết) và con bà Bàn Thị T; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 22/01/2018 đến ngày 25/01/2018 được hủy bỏ biện pháp tạm giữ thay thế bằng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú cho đến nay. Có mặt

* Người bị hại: Chị Nguyễn Thị Hương L, sinh ngày 29 tháng 8 năm 2000.

Nơi cư trú: Thôn 4, xã Đ, huyện C, tỉnh Bắc Kạn. Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt

- Người đại diện hợp pháp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại: Bà Hoàng Thị H, sinh ngày 01/6/1979.

Trú tại: Thôn 4, xã Đ, huyện C, tỉnh Bắc Kạn. Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

- Anh Nguyễn Đức L, sinh ngày 09/8/1995.

Nơi cư trú: Thôn N, xã Ng, huyện C, tỉnh Bắc Kạn. Có mặt

- Ông Nguyễn Tiến A, sinh năm 1980.

Nơi cư trú: Thôn 4, xã Đ, huyện C, tỉnh Bắc Kạn. Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ 10 phút ngày 21/01/2018, Triệu Văn B đến khu nhà trọ của bà Phạm Bích T1 tại tổ A, thị trấn B, huyện C, tỉnh Bắc Kạn để tìm Hà Vũ T2 (Người quen của B) đang thuê phòng trọ của bà T1. Khi đến phòng trọ của T2, thấy cửa phòng mở, B đứng ở cửa nhìn vào trong phòng để tìm T2 nhưng không thấy. Lúc này ở trong phòng chỉ có chị Nguyễn Thị Hương L (chị họ của T2, ở cùng phòng trọ với T2) đang nằm trên giường tay trái cầm chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A39 màu bạc để xem phim, cách vị trí B đứng khoảng 1,90m. Khi chị L nhìn ra phía cửa thì thấy Triệu Văn B, chị L hỏi thì B bỏ đi. Nghĩ B đến tìm em T2 nên L tiếp tục nằm xem điện thoại. Sau khi đi ra đến cổng phòng trọ của T2, B hút thuốc lá và đợi T2 về. Khoảng 05 phút sau, B nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc điện thoại của chị L nên B tiếp tục quay vào phòng trọ, đứng cách vị trí chị L đang nằm xem điện thoại 01m dùng tay trái giật chiếc điện thoại từ tay chị L rồi bỏ chạy. Ngay khi bị giật chiếc điện thoại, chị L hô hoán người dân xung quanh đuổi theo B nhưng không kịp. Sau khi chiếm đoạt được chiếc điện thoại của chị L, B chạy theo đường dân sinh thuộc tổ N, thị trấn B, huyện C đến khu vực trường THPT huyện C cũ thuộc tổ 3, thị trấn B, huyện C và dùng điện thoại di động của B gọi cho Nguyễn Đức L đến gặp để bán chiếc điện thoại vừa chiếm đoạt được cho L với số tiền 500.000đồng (Năm trăm nghìn đồng). Số tiền bán điện thoại, B đã chi tiêu cá nhân hết 45.000đồng (Bốn mươi lăm nghìn đồng), còn lại 455.000đồng (Bốn trăm năm mươi lăm nghìn đồng) đã bị Cơ quan điều tra tạm giữ.

Ngày 22/01/2018 chị Nguyễn Thị Hương L có đơn trình báo đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Chợ Đồn đề nghị điều tra làm rõ và xử lý theo quy định của pháp luật.

Tại Kết luận định giá tài sản số 04/HĐ-ĐGTS ngày 23/01/2018 của Hội đồng định giá tài sản huyện Chợ Đồn kết luận: Giá trị của chiếc điện thoại di động nêu trên tại thời điểm ngày 21/01/2018 còn có giá là: 3.324.800đ (Ba triệu ba trăm hai mươi nghìn tám trăm đồng).

Tại Cáo trạng số: 11/CT-VKSCĐ ngày 02/5/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn đã truy tố bị cáo Triệu Văn B về tội “Cướp giật tài sản” theo Khoản 1 Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Đồn thực hành quyền công tố vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị:

- Về hình phạt tù: Xử phạt bị cáo Triệu Văn B mức án từ 15 đến 18 tháng tù.

- Phạt bổ sung bằng tiền: Không áp dụng đối với bị cáo do không có điều kiện thi hành.

- Vật chứng: Tạm giữ số tiền 455.000đồng của bị cáo để đảm bảo thi hành án; trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động.

- Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra người bị hại đã nhận được lại tài sản không yêu cầu bị cáo phải bồi thường. Do người bị hại không có yêu cầu nên không xem xét.

- Về người liên quan Nguyễn Đức L là người đã mua chiếc điện thoại di động do bị cáo phạm tội mà có với số tiền 500.000đồng (Năm trăm nghìn đồng). Số tiền trên gia đình bị cáo đã tự nguyện bồi thường xong cho anh L, không ai có yêu cầu gì thêm nên không xem xét.

Tại phiên tòa bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhất trí không có ý kiến tranh luận với đề nghị của Viện kiểm sát.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Chợ Đồn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Đồn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên toà bị cáo Triệu Văn B đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn đã truy tố. Chứng minh cho lời nhận tội của các bị cáo còn có các tài liệu mà cơ quan điều tra đã thu thập trong hồ sơ vụ án như: Biên bản khám nghiệm hiện trường, lời khai của người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, kết quả định giá tài sản cùng toàn bộ lời nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra và một số tài liệu liên quan. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng hơn 21giờ 15 phút, ngày 21/01/2018 tại tổ A, thị trấn B, huyện C. Bị cáo Triệu Văn B đã có hành vi cướp giật tài sản là 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO trị giá là: 3.324.800đ (Ba triệu ba trăm hai mươi tư nghìn tám trăm đồng) của chị Nguyễn Thị Hương L khi chị L đang cầm trên tay rồi nhanh chóng tẩu thoát.

[3] Hành vi của bị cáo là hành vi nhanh chóng giật lấy tài sản của người khác rồi tẩu thoát. Khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Triệu Văn B đã phạm vào tội “Cướp giật tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 171 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017). Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Đồn truy tố đối với bị cáo là hoàn toàn đúng người, đúng tội.

[4] Bị cáo biết việc chiếm đoạt tài sản trái với ý muốn của chủ sở hữu là vi phạm pháp luật, bị xã hội lên án nhưng vì động cơ tư lợi bất chính, muốn có được tiền tiêu xài cá nhân mà không phải lao động chính đáng nên bị cáo đã thực hiện tội phạm với lỗi cố ý trực tiếp.

[5] Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác, ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự xã hội tại địa phương nơi bị cáo thực hiện tội phạm, tạo sự bất bình, gây hoang mang trong quần chúng nhân dân, làm mọi người không an tâm trong lao động, sinh hoạt, nghỉ ngơi. Vì vậy cần có mức hình phạt nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra.

[6] Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng, thực hiện một mình với lỗi cố ý trực tiếp. Trước khi phạm tội bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Về tình tiết tăng nặng, bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ như thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tại phiên tòa bị cáo đã tác động gia đình tự nguyện bồi thường cho anh L số tiền mua bán điện thoại, bị cáo có bố đẻ là người có công với nước được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Nhất là các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Trong vụ án này, bị cáo phạm tội đã hoàn thành nên việc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian là điều cần thiết nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội và có tác dụng phòng ngừa chung.

[7] Về trách nhiệm dân sự:

Người bị hại đã nhận lại tài sản, nay không có yêu cầu HĐXX giải quyết nên không xem xét.

Anh Nguyễn Đức L là người đã mua chiếc điện thoại di động do bị cáo phạm tội mà có với số tiền 500.000đồng (Năm trăm nghìn đồng). Khi mua chiếc điện thoại của bị cáo anh L không biết chiếc điện thoại là tài sản do bị cáo phạm tội mà có, anh L yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền trên. Số tiền 500.000đồng tại phiên tòa gia đình bị cáo đã tự nguyện bồi thường cho anh L và không có đề nghị gì nên Hội đồng xét xử không đặt vấn đề xem xét.

[8] Về vật chứng:

01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu PHILIP, bên trong có lắp 01 sim Viettel cơ quan điều tra thu giữ của bị cáo, quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo xác định đây là chiếc điện thoại bị cáo đã sử dụng liên lạc việc bán chiếc điện thoại bị cáo cướp giật được cho anh L. Xét cần tịch thu sung quỹ nhà nước.

Đối với số tiền 455.000đồng (Bốn trăm năm mươi lăm nghìn đồng) thu giữ của bị cáo, xác định đây là tiền do bị cáo bán điện thoại cho anh L mà có, tại phiên tòa gia đình bị cáo đã tự nguyện bồi thường xong cho anh L toàn bộ số tiền anh L đã bỏ ra mua chiếc điện thoại của bị cáo là 500.000đồng (Năm trăm nghìn đồng). Tuy nhiên xét cần tạm giữ số tiền 455.000đồng (Bốn trăm năm mươi lăm nghìn đồng) thu giữ của bị cáo để thi hành án.

[9] Về hình phạt bổ sung: Căn cứ vào tài liệu xác minh của cơ quan điều tra tại thời điểm phạm tội bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[10] Về người liên quan Nguyễn Đức L: Ngày 21/01/2018, anh L có mua chiếc điện thoại do bị cáo phạm tội đem bán, nhưng do trước đó anh L hoàn toàn không biết chiếc điện thoại trên do bị cáo phạm tội mà có nên kết thúc điều tra cơ quan điều tra không xem xét xử lý trách nhiệm của anh L là có căn cứ.

Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Triệu Văn B, phạm tội: “Cướp giật tài sản”.

[1]. Về hình phạt:

- Áp dụng khoản 1 Điều 171; Điều 38; điểm s khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Xử phạt bị cáo Triệu Văn B 12 (Mười hai) tháng tù giam. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo vào trại chấp hành án. Thời hạn chấp hành án được trừ đi thời gian bị cáo bị cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn tạm giữ từ ngày 22/01/2018 đến ngày 25/01/2018.

[2]. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 584, 585, 586, 589 của Bộ luật dân sự. Ghi nhận gia đình bị cáo đã tự nguyện bồi thường cho anh Nguyễn Đức L số tiền 500.000đ (Năm trăm nghìn đồng).

[3]. Về vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 46, khoản 1 Điều 48/BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106/BLTTHS 2015.

- Tạm giữ số tiến 455.000đồng (Bốn trăm năm mươi lăm nghìn đồng) của bị cáo để bảo đảm thi hành án.

- Tịch thu hóa giá sung quỹ nhà nước 01 điện thoại nhãn hiệu PHILIP màu đen loại điện thoại bàn phím có số IMEI1: 865656023302998; số IMEI 2: 865656023303004, bên trong có lắp 01 sim Viettel có dòng số cuối cùng là: 66328 của bị cáo.

[4]. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 BLTTHS; Khoản 1 Điều 21, Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội. Bị cáo Triệu Văn B phải nộp 200.000đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Đức L có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười năm) ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người bị hại, người đại diện hợp pháp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Tiến A vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

251
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án AA/2018/HSST ngày 30/05/2018 về tội cướp giật tài sản

Số hiệu:AA/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Đồn - Bắc Kạn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về